New Mexico
Tiểu bang New Mexico | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
| |||||||
Biệt danh: Land of Enchantment | |||||||
Địa lý | |||||||
Quốc gia | Hoa Kỳ | ||||||
Thủ phủ | Santa Fe | ||||||
Thành phố lớn nhất | Albuquerque | ||||||
Diện tích | 315,194 km² (hạng thứ 5) | ||||||
• Phần đất | 314161 km² | ||||||
• Phần nước | 608 km² (0.2 %) | ||||||
Chiều ngang | 550 km² | ||||||
Chiều dài | 595 km² | ||||||
Kinh độ | 103° T tới 109° 3′ t | ||||||
Vĩ độ | 31° 20′ B tới 37° B | ||||||
Dân số (2018) | 2095428 (hạng thứ 36) | ||||||
• Mật độ | 6,62 (hạng thứ 45) | ||||||
• Trung bình | 1.740 m | ||||||
• Cao nhất | Đỉnh Wheeler[2][3][4] 4013,3 m | ||||||
• Thấp nhất | Hồ chứa nước Red Bluff cạnh biên giới Texas[3][4] 867 m | ||||||
Hành chính | |||||||
Thống đốc | Michelle Lujan Grisham (Dân chủ) | ||||||
Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ |
| ||||||
Múi giờ | UTC-7, America/Denver | ||||||
Giờ mùa hè | Không áp dụng | ||||||
Viết tắt | US-NM | ||||||
Trang web | www.newmexico.gov |
Biểu tượng tiểu bang New Mexico | |
---|---|
Biểu hiệu của Động vật và Thực vật | |
Chim | Chẹo đất lớn |
Cá | Oncorhynchus clarki virginalis |
Hoa | Yucca |
Cỏ | Bouteloua gracilis |
Động vật có vú | Gấu đen Bắc Mỹ |
Bò sát | Aspidoscelis neomexicana |
Cây | Pinus edulis |
Biểu hiệu văn hóa | |
Màu | Đỏ và vàng |
Thực vật | Ớt |
Hóa thạch | Coelophysis |
Đá quý | Ngọc lam |
Khẩu hiệu | Crescit eundo |
Tên hiệu | The Land of Enchantment |
Bài hát | "O' Fair New Mexico" |
Điểm đánh dấu tuyến đường của tiểu bang | |
Quarter tiểu bang | |
Phát hành năm 2008 | |
Danh sách các biểu tượng tiểu bang Hoa Kỳ |
New Mexico (tiếng Tây Ban Nha: Nuevo México [ˈnweβo ˈmexiko]; tiếng Navajo: Yootó Hahoodzo [jò:txó hàhò:tsò]) là một tiểu bang tọa lạc ở vùng Tây Nam Hoa Kỳ, giáp biên giới quốc tế với bang Chihuahua của México. New Mexico trở thành bang thứ 47 vào ngày 6 tháng 1 năm 1912. Nó thường được xem là một tiểu bang miền Núi. New Mexico có diện tích lớn thứ năm, dân số lớn thứ 36, và mật độ dân số thấp thứ sáu trong 50 tiểu bang Hoa Kỳ.
Đã có người sinh sống từ hàng nghìn năm trước khi người châu Âu đến khai phá, New Mexico trở thành một phần của thuộc địa Tân Tây Ban Nha của đế quốc Tây Ban Nha năm 1598. Sau đó, nó là một phần của nước México độc lập trước khi trở thành một lãnh thổ Hoa Kỳ và cuối cùng thành một tiểu bang Hoa Kỳ do kết quả của cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ-México. Trong các tiểu bang, New Mexico có tỉ lệ người Hispano cao nhất, gồm con cháu của thực dân Tây Ban Nha, những người đã sống ở đây hơn 400 năm. Nó cũng có tỉ lệ người bản địa cao thứ nhì sau Alaska, và có tổng số người bản địa cao thứ tư sau California, Oklahoma, và Arizona.[5] Đa số người bản địa thuộc các dân tộc Navajo, Pueblo, và Apache. Nền văn hóa tiểu bang được định hình qua các ảnh hưởng từ Hispano và người bản địa, và được thể hiện qua bang kỳ. Màu đỏ và vàng được lấy từ hoàng kỳ Tây Ban Nha, với biểu tượng mặt trời cổ xưa của người Zia.[6]
Có một niềm tin sai lầm rằng New Mexico, hay Nuevo México trong tiếng Tây Ban Nha, lấy tên theo quốc gia México. Tuy nhiên, khi người Tây Ban Nha khai phá New Mexico năm 1563, và lần nữa năm 1581, họ tin rằng nó cũng có nền văn hóa Mexica tương tự của Đế quốc Aztec. Cái tên này đơn giản là được chấp nhận, dù tiểu bang không có liên hệ gì với các bộ tộc tại México.[7][8][9]
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Most spoken languages in New Mexico in 2010”. MLA Data Center. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2012.
- ^ “Wheeler”. Tờ dữ liệu NGS. Cục Đo đạc Quốc gia Hoa Kỳ (NGS).
- ^ a b “Elevations and Distances in the United States”. United States Geological Survey. 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2011.
- ^ a b Elevation adjusted to North American Vertical Datum of 1988.
- ^ Norris, Tina; Vines, Paula L.; Hoeffel, Elizabeth M. (tháng 2 năm 2012). “The American Indian and Alaska Native Population: 2010” (PDF). Census 2010 Brief. United States Census Bureau. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2012.
- ^ “New Mexico State Flag – About the New Mexico Flag, its adoption and history from”. Netstate.Com. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2012.
- ^ Weber, David J. (1992). The Spanish Frontier in North America. New Haven và London: Yale University Press. tr. 79.
- ^ Sanchez, Joseph P. (1987). The Rio Abajo Frontier, 1540–1692: A History of Early Colonial New Mexico. Albuquerque: Museum of Albuquerque History Monograph Series. tr. 51.
- ^ Stewart, George (2008) [1945]. Names on the Land: A Historical Account of Place-Naming in the United States. New York: NYRB Classics. tr. 23–24. ISBN 978-1-59017-273-5.
There was Francisco de Ibarra, a great seeker after gold mines. In 1563 he went far to the north... when he returned south, Ibarra boasted that he had discovered a New Mexico. Doubtless, like others, he stretched the tale, and certainly the land of which he told was well south of the one now so called. Yet men remembered the name Nuevo México, though not at first as that of the region which Coronado had once conquered.