Nakata Hidetoshi
Nakata năm 2012 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Nakata Hidetoshi | ||
Ngày sinh | 22 tháng 1, 1977 | ||
Nơi sinh | Kōfu, Yamanashi, Nhật Bản | ||
Chiều cao | 1,75 m (5 ft 9 in) | ||
Vị trí | Tiền vệ | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1992–1994 | Trung học Nirasaki | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1995–1998 | Bellmare Hiratsuka | 85 | (16) |
1998–2000 | Perugia | 48 | (12) |
2000–2001 | Roma | 30 | (5) |
2001–2004 | Parma | 67 | (5) |
2004 | → Bologna (mượn) | 17 | (2) |
2004–2006 | Fiorentina | 20 | (0) |
2005–2006 | → Bolton Wanderers (mượn) | 21 | (1) |
Tổng cộng | 288 | (41) | |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1991–1993 | U-17 Nhật Bản | 6 | (2) |
1994–1995 | U-20 Nhật Bản | 12 | (6) |
1995–2000 | U-23 Nhật Bản | 12 | (3) |
1997–2006 | Nhật Bản | 77 | (11) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Nakata Hidetoshi (
Nakata bắt đầu sự nghiệp vào năm 1995 và giành giải Cầu thủ xuất sắc nhất châu Á của AFC vào năm 1997 và 1998, giành Scudetto với Roma năm 2001, thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản tại ba kỳ World Cup (1998, 2002 và 2006) và hai kỳ Thế vận hội Mùa hè (1996 và 2000). Vào năm 2005, anh được phong tước Hiệp sĩ Cavaliere OSSI, một trong những tước hiệp sĩ cao nhất của Ý, nhờ quảng bá hình ảnh nước Ý tới thế giới.[2] Ngoài bóng đá, Nakata cũng tham gia vào các sự kiện thời trang.
Nakata giải nghệ vào năm 2006 ở tuổi 29, với bảy mùa giải ở Serie A và một mùa giải ở Ngoại hạng Anh. Vào năm 2004, Nakata có tên trong danh sách FIFA 100, danh sách gồm các cầu thủ bóng đá vĩ đại nhất còn sống. Nakata là người Nhật duy nhất và một trong hai cầu thủ châu Á trong danh sách này. Năm 2018, Nakata là một trong những cầu thủ icon trong Ultimate Team của game FIFA 19.
Sự nghiệp câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Đầu sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Nakata bắt đầu thi đấu chuyên nghiệp năm 1995 lúc 18 tuổi, với Bellmare Hiratsuka (giờ là Shonan Bellmare). Anh thi đấu trong vai trò tiền vệ tấn công trong mùa giải đầu tiên và giúp đội vô địch Cúp C2 châu Á 1995. Trong trận chung kết gặp Al-Talaba, anh ghi bàn thắng quyết định ở phút 81.[3] Anh trở thành cầu thủ trụ cột từ năm 1996, anh lọt vào Đội hình tiêu biểu J.League năm 1997. Sau World Cup 1998 ở Pháp, Nakata ký hợp đồng với câu lạc bộ Perugia của Serie A với giá 4 triệu đô la Mỹ,[4] trở thành người Nhật thứ hai thi đấu ở giải đấu hàng đầu Italia sau Miura Kazuyoshi tại Genoa bốn năm trước đó. Trong mùa giải đầu ở Ý, Nakata ghi 10 bàn, con số cao nhất trong một mùa giải của cá nhân anh.
Roma
[sửa | sửa mã nguồn]Vào tháng 1 năm 2000, sau một mùa rưỡi ở Perugia, Nakata chuyển sang A.S. Roma với giá 42 tỉ ITL (21,691 triệu euro)[5] giúp đội bóng vô địch scudetto. Một trong những pha bóng nổi bật trong thời gian Nakata thi đấu tại Roma diễn ra vào ngày 6 tháng 5 năm 2001 trong trận đấu với Juventus tại Sân vận động Alpi. Sau khi vào sân thay Francesco Totti ở hiệp hai và Roma đang bị dẫn 0–2, Nakata có cú sút từ khoảng cách gần 30 mét tung lưới Edwin van der Sar, và trận đấu chỉ còn 11 phút là mãn cuộc. Anh sau đó tiếp tục góp công vào bàn gỡ hòa cho Roma khi cú sút từ ngoài vòng cấm của anh, dù bị Van der Sar cản phá, tìm tới Vincenzo Montella, người ghi bàn gỡ hòa cho Roma ở phút cuối. Trận đấu khép lại với kết quả 2–2 và Roma bảo toàn cách biệt sáu điểm để giữ chắc ngôi đầu bảng.[6]
Parma
[sửa | sửa mã nguồn]Vào mùa hè năm 2001, Nakata ký một hợp đồng bốn năm với Parma[7] với giá 55 tỉ lira (28,4 triệu euro)[8][9] mức giá kỷ lục cho một cầu thủ châu Á thời điểm đó.[10] Anh ra mắt màu áo mới vào ngày 8 tháng 8 năm 2001 trong trận thua 0–2 tại sân Stadio Ennio Tardini trước Lille tại lượt đi vòng loại thứ ba UEFA Champions League.[11] Ngày 23 tháng 9, Nakata có bàn thắng đầu tiên cho Parma tại Serie A trước Brescia.[12] Nakata thi đấu ở đây trong hai mùa rưỡi, có một bàn thắng quan trong mùa giải 2001–02 trong trận thua 1–2 ở lượt đi chung kết Coppa Italia với Juventus,[13] để rồi sau đó Parma lật ngược thế cờ ở lượt về.[14]
Những năm cuối sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Tháng 1 năm 2004, Nakata gia nhập Bologna và thi đấu trong phần còn lại của mùa giải 2003–04 trước cập bến Fiorentina mùa giải 2004-05. Vào tháng 8 năm 2005, Nakata gia nhập đội bóng thi đấu tại Premiership là Bolton Wanderers theo dạng cho mượn. Trong mùa giải duy nhất với Bolton, cũng là mùa giải cuối cùng trong sự nghiệp của mình, anh ghi một bàn trong trận thắng 2–0 trước West Bromwich Albion.[15]
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi cùng đội tuyển U-17 Nhật Bản tại Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 1993 (ghi một bàn) và cùng U-20 Nhật Bản dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 1995 (ghi hai bàn), Nakata được triệu tập vào đội hình U-23 Nhật Bản tham dự Thế vận hội 1996, nơi Nhật Bản bất ngờ vượt qua U-23 Brasil,[16] và Thế vận hội 2000. Anh ra mắt Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản vào tháng 5 năm 1997 trong trận gặp Hàn Quốc.[17]
Anh là cầu thủ chủ chốt giúp Nhật Bản giành vé dự Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 với năm bàn thắng tại vòng loại và kiến tạo cả ba bàn thắng của Nhật Bản trong trận play-off với Iran. Anh giúp Nhật Bản lọt vào chung kết Cúp Liên đoàn các châu lục 2001 nhưng không tham dự trận chung kết vì phải thi đấu trận đấu cuối cùng của mùa giải cho Roma.[18] Nakata thi đấu cả bốn trận của Nhật Bản tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 trên sân nhà, ghi bàn trong chiến thắng 2–0 ở vòng bảng trước Tunisia.
Tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006, Nakata thi đấu cả ba trận của Nhật Bản, thua Úc và Brasil, hòa Croatia. Anh là Cầu thủ xuất sắc nhật trận đấu trong trận gặp Croatia.[19] Sau World Cup 2006 Nakata tuyên bố giã từ sự nghiệp bóng đá đỉnh cao.[20][21] Trong cuộc phỏng vấn vào năm 2014 với tạp chí TMW, Nakata giải thích rằng anh giải nghệ khi còn rất trẻ như vậy là do anh không còn cảm hứng chơi bóng, và muốn khám phá thế giới xung quanh.[22]
Mặc dù Nakata có mặt ở mọi trận đấu trong ba kỳ World Cup đầu tiên của Nhật Bản, tuy nhiên anh không có tên trong các đội hình vô địch Cúp bóng đá châu Á vào các năm 2000 và 2004. Anh có tổng cộng 77 lần ra sân cho đội tuyển quốc gia, ghi 11 bàn, trong đó có 9 bàn ở các giải đấu của FIFA.[17]
Lối chơi
[sửa | sửa mã nguồn]Nakata là một tiền vệ tấn công nhanh nhẹn, sáng tạo, cần mẫn, với nhãn quan tốt. Anh nổi tiếng với khả năng kỹ thuật, độ chính xác, tầm nhìn, khả năng chuyền bóng, cũng như thực hiện những cú đột phá vào vòng cấm để ghi bàn; ngoài ra anh cũng có thể tung ra những cú sút xa từ ngoài vòng 16m50.[1][23][24][25]
Ngoài bóng đá
[sửa | sửa mã nguồn]Bên cạnh bóng đá, Nakata còn có đam mê với thời trang. Anh tham dự các buổi trình diễn thời trang, mặc các mẫu thiết kế của các nhà tạo mẫu và mang các kiểu tóc màu mè. Anh nhuộm tóc vàng ngay trước thềm Giải vô địch bóng đá thế giới 1998, với hy vọng thu hút sự chú ý của các nhà tuyển mộ cầu thủ tại châu Âu. Nhà tạo mẫu tóc Aki Watanabe coi anh là một người tạo xu hướng (trendsetter).[26] Andrea Tenerani, nhiếp ảnh gia của tạp chí GQ của khen ngợi Nakata, "Cậu ấy hoàn hảo; cậu ấy như một người mẫu vậy. Và câu ấy thực sự đam mê thời trang."[27] Nhà thiết kế Italo Zucchelli của Calvin Klein cho rẳng, "(Nakata) chơi đùa với thời trang giống như tất cả mọi người, nhưng theo một cách hay hơn nhiều người khác."[28] Anh là một trong những người mẫu trong chiến dịch quảng bá đồ lót của Calvin Klein vào năm 2010. Anh có mặt trong ấn phẩm tháng 7 năm 2007 tại Mỹ của tờ GQ. Anh cũng có mặt trong ấn phẩm GQ tháng 12 năm 2011 tại Nhật.[29]
Được coi là David Beckham của Nhật Bản,[30] Nakata từng là biên tập viên của tạp chí Monocle theo lời mời của tổng biên tập Tyler Brûlé.[31] Nakata nói rằng, bộ truyện tranh và anime Tsubasa Giấc mơ sân cỏ là niềm cảm hứng khiến Nakata lựa chọn bóng đá làm sự ngihệp.[32] Anh từng là cổ động viên của môn bóng đá người khuyết tật tại Special Olympics và tham dự Special Olympics Unity Cup 2010[33] ở Nam Phi trong thời gian diễn ra World Cup. Nakata là Đại sứ toàn cầu của Special Olympics năm 2014.[34]
Truyền thông
[sửa | sửa mã nguồn]Nakata từng kí hợp đồng với Nike và có mặt trong chiến dịch quảng cáo "Secret Tournament" của Nike (tên khác là "Scorpion KO") do Terry Gilliam làm đạo diễn, trước thềm World Cup 2002.[35] Anh tham gia cùng các danh thủ khác như Ronaldo, Ronaldinho, Luís Figo, Thierry Henry, Roberto Carlos và Francesco Totti, với Eric Cantona là "trọng tài".[35][36] Nakata có mặt trên bìa đĩa của các phiên bản phát hành tại Nhật của game FIFA của EA Sports, trong đó có FIFA Football 2002. Vào năm 2018, Nakata trở thành một trong các cầu thủ icon trong chế độ Ultimate Team của FIFA 19.[37]
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ | Mùa | Giải quốc nội | Giải | Cúp | Cúp liên đoàn | Châu lục1 | Siêu cúp2 | Tổng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | |||
Bellmare Hiratsuka | 1995 | J1 League | 26 | 8 | 2 | 1 | - | 6 | 1 | 1 | 0 | 35 | 10 | |
1996 | 26 | 2 | 3 | 0 | 12 | 2 | 3 | 0 | - | 44 | 4 | |||
1997 | 21 | 3 | 3 | 0 | 6 | 1 | - | - | 30 | 4 | ||||
1998 | 12 | 3 | - | - | - | - | 12 | 3 | ||||||
Tổng | 85 | 16 | 8 | 1 | 18 | 3 | 9 | 1 | 1 | 0 | 121 | 21 | ||
Perugia | 1998–99 | Serie A | 33 | 10 | - | 0 | 0 | - | - | 33 | 10 | |||
1999–00 | 15 | 2 | - | 4 | 1 | 3 | 1 | - | 22 | 4 | ||||
Tổng | 48 | 12 | - | 4 | 1 | 3 | 1 | - | 55 | 14 | ||||
Roma | 1999–00 | Serie A | 15 | 3 | - | 1 | 0 | 2 | 0 | - | 18 | 3 | ||
2000–01 | 15 | 2 | - | 0 | 0 | 7 | 1 | - | 22 | 3 | ||||
Tổng | 30 | 5 | - | 1 | 0 | 9 | 1 | - | 40 | 6 | ||||
Parma | 2001–02 | Serie A | 24 | 1 | - | 6 | 2 | 8 | 1 | - | 38 | 4 | ||
2002–03 | 31 | 4 | - | 2 | 0 | 4 | 0 | 1 | 0 | 38 | 4 | |||
2003–04 | 12 | 0 | - | 2 | 0 | 4 | 1 | - | 18 | 1 | ||||
Tổng | 67 | 5 | - | 10 | 2 | 16 | 2 | 1 | 0 | 95 | 9 | |||
Bologna | 2003–04 | Serie A | 17 | 2 | - | 0 | 0 | - | - | 17 | 2 | |||
Tổng | 17 | 2 | - | 0 | 0 | - | - | 17 | 2 | |||||
ACF Fiorentina | 2004–05 | Serie A | 20 | 0 | - | 3 | 0 | - | - | 23 | 0 | |||
Tổng | 20 | 0 | - | 3 | 0 | - | - | 23 | 0 | |||||
Bolton Wanderers | 2005–06 | Ngoại hạng Anh | 21 | 1 | 3 | 0 | 2 | 0 | 6 | 0 | - | 32 | 1 | |
Tổng | 21 | 1 | 3 | 0 | 2 | 0 | 6 | 0 | - | 32 | 1 | |||
Tổng sự nghiệp | 288 | 41 | 11 | 1 | 38 | 6 | 43 | 5 | 2 | 0 | 382 | 53 |
1Gồm các giải đấu như Cúp C2 châu Á, Intertoto Cup, UEFA Cup và UEFA Champions League. 2Gồm các giải đấu như Siêu cúp Nhật Bản và Siêu cúp bóng đá Ý.
Quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]Nhật Bản | ||
---|---|---|
Năm | Trận | Bàn |
1997 | 16 | 5 |
1998 | 10 | 1 |
1999 | 3 | 0 |
2000 | 4 | 0 |
2001 | 7 | 1 |
2002 | 8 | 2 |
2003 | 11 | 1 |
2004 | 2 | 0 |
2005 | 10 | 0 |
2006 | 6 | 1 |
Tổng | 77 | 11 |
Bàn thắng quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]# | Ngày | Trận | Đối thủ | Tỉ số | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 22 tháng 6 năm 1997 | Tokyo, Nhật Bản | Ma Cao | 10–0 | Thắng | Vòng loại World Cup 1998 |
2. | 22 tháng 6 năm 1997 | Tokyo, Nhật Bản | Ma Cao | 10–0 | Thắng | Vòng loại World Cup 1998 |
3. | 28 tháng 6 năm 1997 | Tokyo, Nhật Bản | Oman | 1–1 | Hòa | Vòng loại World Cup 1998 |
4. | 7 tháng 9 năm 1997 | Tokyo, Nhật Bản | Uzbekistan | 6–3 | Thắng | Vòng loại World Cup 1998 |
5. | 8 tháng 11 năm 1997 | Tokyo, Nhật Bản | Kazakhstan | 5–1 | Thắng | Vòng loại World Cup 1998 |
6. | 15 tháng 2 năm 1998 | Adelaide, Úc | Úc | 3–0 | Thắng | Giao hữu |
7. | 7 tháng 6 năm 2001 | Yokohama, Nhật Bản | Úc | 1–0 | Thắng | Cúp Liên đoàn các châu lục 2001 |
8. | 27 tháng 3 năm 2002 | Łódź, Ba Lan | Ba Lan | 2–0 | Thắng | Giao hữu |
9. | 14 tháng 6 năm 2002 | Ōsaka, Nhật Bản | Tunisia | 2–0 | Thắng | Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 |
10. | 18 tháng 6 năm 2003 | Saint-Denis, Pháp | New Zealand | 3–0 | Thắng | Cúp Liên đoàn các châu lục 2003 |
11. | 28 tháng 2 năm 2006 | Dortmund, Đức | Bosna và Hercegovina | 2–2 | Hòa | Giao hữu |
Danh hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]- Bellmare Hiratsuka[38]
- Roma[38]
- Parma[38]
Quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]- Nhật Bản[39]
- Á quân Giải vô địch bóng đá U-19 châu Á: 1994
- Kirin Cup: 1997
- Dynasty Cup: 1998
- Á quân Cúp Liên đoàn các châu lục: 2001
Cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]- J.League All-Star: 1997
- Đội hình tiêu biểu J.League: 1997
- Cầu thủ xuất sắc nhất Nhật Bản: 1997
- Giải thưởng Thể thao chuyên nghiệp Nhật Bản: 1997
- Cầu thủ xuất sắc nhất châu Á: 1997 1998
- Cầu thủ xuất sắc nhất Dynasty Cup: 1998
- Đội hình tiêu biểu AFC: 1997 1998 1999
- Quả bóng đồng Cúp Liên đoàn các châu lục: 2001[40]
- Đội hình tiêu biểu Cúp Liên đoàn các châu lục: 2001
- Đội hình tiêu biểu World Cup: 2002 (Dự bị)[41]
- Đội hình kỷ niệm 20 năm J.League
- FIFA 100
- Golden Foot Legends Award: 2014[42]
- IFFHS Legends[43]
Thành tựu khác
[sửa | sửa mã nguồn]- Đề cử Quả bóng vàng châu Âu: 1998, 1999, 2001
- Đề cử Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA: 1998,[44] 1999,[45] 2001, 2002[46]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Junko Ogura; Matthew Ponsford (ngày 28 tháng 5 năm 2014). “Hidetoshi Nakata: Japan's misunderstood son returns from exile”. CNN. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Arise, Sir Nak!”. This Is Lancashire. ngày 14 tháng 10 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2006. Đã định rõ hơn một tham số trong
|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp) - ^ RSSSF
- ^ Paddy Agnew. “The Hidetoshi Nakata story in Serie A | Football”. The Guardian.
- ^ “BILANCIO D'ESERCIZIO E CONSOLIDATO DI GRUPPO AL 30 GIUGNO 2000” (PDF). A.S. Roma (bằng tiếng Ý). Borsa Italiana Archive. ngày 28 tháng 6 năm 2001.
- ^ “la Repubblica/campionato_partite: Montella e Nakata rimontano la Juve”. Repubblica.it.
- ^ “Nakata joins Parma”. BBC. ngày 6 tháng 7 năm 2001. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2013.
- ^ AS Roma SpA bilancio 30.06.2001. A.S. Roma (PDF)
|format=
cần|url=
(trợ giúp) (bằng tiếng Ý). CCIAA. - ^ “Parma, non solo Nakata”. La Gazzetta dello Sport (bằng tiếng Ý). ngày 6 tháng 7 năm 2001. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2013.
- ^ “Koreans hit the big time”. Korea Joongang Daily. ngày 30 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2015.
- ^ Evans, Simon (ngày 9 tháng 8 năm 2001). “Parma rocked by determined Lille”. ESPN Soccernet. ESPN. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2016.
- ^ “Nakata salva il Parma e la panchina di Ulivieri” [Nakata cứu Parma và cái ghế của Ulivieri]. La República (bằng tiếng Ý). ngày 23 tháng 9 năm 2001. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2016.
- ^ “Coppa Italia delicately poised”. UEFA.com. Union of European Football Associations. ngày 25 tháng 4 năm 2002. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2016.
- ^ “Parma deny Juventus double”. Dawn. Reuters. ngày 12 tháng 5 năm 2002. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2016.
- ^ “Bolton 2-0 West Brom”. BBC. ngày 23 tháng 10 năm 2005. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Japan in need of miracle”. Giải vô địch bóng đá thế giới 2006. ngày 21 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2006.[liên kết hỏng]
- ^ a b c d “NAKATA Hidetoshi”. Japan National Football Team Database. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2013.
- ^ “Just making the final was a triumph for cup co-host”. Sports Illustrated. Associated Press. ngày 11 tháng 6 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2019.
- ^ “Japan 0-0 Croatia”. BBC News. ngày 18 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2008.
- ^ “Japan and Bolton midfielder Nakata to retire”. Reuters. ngày 3 tháng 7 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2006.
- ^ “To live is to journey, and to journey is to live”. Hidetoshi Nakata. ngày 3 tháng 7 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2007. Đã định rõ hơn một tham số trong
|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp) - ^ Guerri, Cristina (tháng 1 năm 2014). “In viaggio con Nakata” [Trên con đường với Nakata]. TMW Magazine (bằng tiếng Ý): 10. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2014.
- ^ “Dal Giappone con furore” (bằng tiếng Ý). Football Magazine Italia. ngày 13 tháng 5 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Calcio, Bologna; Signori: Nakata ci darà quel che ci manca” [Bóng đá, Bologna; Signori: Nakata sẽ bù đắp thứ chúng tôi còn thiếu] (bằng tiếng Ý). La Repubblica. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2015.
- ^ James Burton. “NAKATA RETURNING TO ROMA”. www.skysports.com. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2017.
- ^ Sodje, Efe (2002). “Footballers ... haircuts. Not always the best combination!”. BBC. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2006.
- ^ Martin, J. J. (ngày 1 tháng 7 năm 2002). “Feast for marketers: It's all about soccer”. International Herald Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2006. Đã định rõ hơn một tham số trong
|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp) - ^ Wilson, Eric (ngày 22 tháng 6 năm 2006). “BLEACH IT LIKE BECKHAM: World Cup of hair style”. New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2006. Đã định rõ hơn một tham số trong
|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp) - ^ “GQ – December 2011 Japan free download in PDF”. Storemags.com. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2016.
- ^ [1] Lưu trữ 2011-09-18 tại Wayback Machine
- ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2008.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
- ^ 'I don't understand why people are football fans. I don't like to watch any kind of sport' Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine - Jonathan Northcroft, The Sunday Times, 1 tháng 1 năm 2006.
- ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2014.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
- ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2014.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
- ^ a b “A lighter shoe, cooler kits, a faster ball, a Secret Tournament – every touch counts”. NikeBiz. Nike. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2002. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2015. Đã định rõ hơn một tham số trong
|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp) - ^ Cozens, Claire (ngày 3 tháng 4 năm 2002). “Cantona hosts World Cup with a difference”. The Guardian. Guardian News and Media.
- ^ “FIFA 19 Ultimate Team: What Icons are in the new game and how do you get them?”. Goal. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2018.
- ^ a b c “Hidetoshi Nakata”. Eurosport. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
- ^ “H. Nakata”. Soccerway. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
- ^ “FIFA Confederations Cup Korea/Japan 2001 | Awards”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association (FIFA). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
- ^ “2002 FIFA World Cup Korea/Japan: Report and Statistics” (PDF). FIFA.com. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2015.
- ^ “Legends”. Golden Foot. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2015.
- ^ “IFFHS announce the 48 football legend players”. IFFHS. ngày 25 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2016.
- ^ “Calcio News 1998–1999 (data of 2/1)” (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2011.
- ^ “Calcio News 1999–2000 (data of 1/26)” (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2011.
- ^ “FIFA World player 2002”. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2011.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Website chính thức
- Nakata Hidetoshi – Thành tích thi đấu FIFA
- Nakata Hidetoshi tại National-Football-Teams.com
- Nakata Hidetoshi tại J.League (tiếng Nhật)
- Hidetoshi Nakata tại Japan National Football Team Database
- FootballDatabase.com
- Hidetoshi Nakata Revealed, CNN.com
- Sinh năm 1977
- Nhân vật còn sống
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1998
- Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2001
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2002
- Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2003
- Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2005
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2006
- Cầu thủ bóng đá A.S. Roma
- Nhân vật bóng đá Yamanashi
- Cầu thủ bóng đá Bologna F.C. 1909
- Cầu thủ bóng đá Bolton Wanderers F.C.
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
- FIFA 100
- Cầu thủ xuất sắc nhất Nhật Bản
- Cầu thủ bóng đá ACF Fiorentina
- Tiền vệ bóng đá
- Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 1996
- Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2000
- Cầu thủ bóng đá J1 League
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Nhật Bản
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản
- Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản ở nước ngoài
- Vận động viên Nhật Bản ở Ý
- Vận động viên Nhật Bản ở Anh
- Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
- Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Nhật Bản
- Cầu thủ bóng đá Parma Calcio 1913
- Cầu thủ bóng đá A.C. Perugia Calcio
- Cầu thủ bóng đá Premier League
- Cầu thủ bóng đá Serie A
- Cầu thủ bóng đá Shonan Bellmare
- Cầu thủ xuất sắc nhất châu Á