[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Claudio Ranieri

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Claudio Ranieri
Ranieri trên cương vị huấn luyện viên trưởng Inter Milan năm 2011
Thông tin cá nhân
Ngày sinh 20 tháng 10, 1951 (73 tuổi)
Nơi sinh Roma, Ý
Vị trí Hậu vệ
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1973–1974 Roma 6 (0)
1974–1982 Catanzaro 225 (8)
1982–1984 Catania 92 (1)
1984–1986 Palermo 40 (0)
Tổng cộng 363 (9)
Sự nghiệp quản lý
Năm Đội
1986–1987 Lametini
1987–1988 Puteolana
1988–1991 Cagliari
1991–1993 Napoli
1993–1997 Fiorentina
1997–1999 Valencia
1999–2000 Atlético Madrid
2000–2004 Chelsea
2004–2005 Valencia
2007 Parma
2007–2009 Juventus
2009–2011 Roma
2011–2012 Inter Milan
2012–2014 Monaco
2014 Hy Lạp
2015–2017 Leicester City
2017–2018 Nantes
2018–2019 Fulham
2019 Roma
2019–2021 Sampdoria
2021–2022 Watford
2023–2024 Cagliari
2024– Roma
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Claudio Ranieri Ufficiale OMRI[1] (sinh ngày 20 tháng 10 năm 1951 tại Roma) là cựu cầu thủ bóng đáhuấn luyện viên người Ý đang dẫn dắt câu lạc bộ Roma.

Ông từng dẫn dắt nhiều câu lạc bộ nổi tiếng ở châu Âu như là Cagliari, Napoli, Valencia, Chelsea, JuventusRoma, Inter MilanMonaco. Ông là huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ CagliariSerie B kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2023.

Ông được gắn biệt danh là "Gã thợ hàn" vì những câu lạc bộ nói trên vào thời điểm ông huấn luyện đều nằm trong tình cảnh dầu sôi lửa bỏng, có thể sẽ không được tham gia UEFA Champions League hay giành được danh hiệu hay tệ hơn nữa là rớt hạng, điển hình vào năm 2011, khi đội bóng Serie A là Inter Milan đang xếp hạng thứ 18, và cận kề ở vị trí cầm đèn đỏ (3 đội bóng sẽ xuống hạng), nhưng lúc đó Inter Milan đã kịp thời cầu cứu ông, và từ khi dẫn dắt Inter Milan, đội bóng đã kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 6... Họ đã giành 7 chiến thắng liên tiếp, trong số đó có AC Milan - đội thủ lớn nhất tại giải Serie A và cũng là kình địch của Inter Milan.

Năm 2016, ông giành chức vô địch Premier League 2015–16 khi dẫn dắt Leicester City dù ở mùa giải trước đội bóng phải đua trụ hạng. Đây là chiến tích lừng lẫy nhất trong sự nghiệp huấn luyện của ông.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi còn chơi bóng chuyên nghiệp, ông từng là một Hậu vệ nhưng không thành công mấy khi còn là một Cầu thủ của đội AS Roma, trong 2 mùa giải chơi bóng, ông chỉ được ra sân đúng 6 lần, vì thế thành tích của ông không có nhiều, nhưng khi giải nghệ, dẫn dắt câu lạc bộ đầu tiên, thành công đã tới vì ông là một huấn luyện viên giỏi.[2][3]

Ông huấn luyện cho đội tuyển quốc gia Hy Lạp 5 trận thì bị sa thải vì thành tích kém cỏi.

Ở mùa giải 2015-16 ông cùng Leicester City tạo nên cơn địa chấn khi vô địch Premier League, đây là một điều không tưởng vì trước đó chẳng ai nghĩ một đội bóng suýt xuống hạng mùa trước có thể vô địch nước Anh.[4] Dù có thành tích tốt tại mùa giải đầu tiên nhưng những kỳ vọng lại trở thành thất vọng khi các mùa sau đó Leicester suýt xuống hạng ở mùa tiếp theo khi chỉ kém nhóm xuống hạng 1 điểm và ông bị BLĐ đội bóng sa thải sau đó.

Sau khi chia tay Leicester City, ông lần lượt dẫn dắt các câu lạc bộ Nantes, Fulham, Roma, Sampdoria, WatfordCagliari.

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Huấn luyện viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Leicester City

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Leicester City manager Claudio Ranieri awarded Italian honour”. The Guardian. 20 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  2. ^ John Ley (ngày 16 tháng 9 năm 2000). “Ranieri handed the Chelsea hot seat”. The Telegraph. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2016.
  3. ^ a b c d e “Manager Profile - Claudio Ranieri”. premierleague.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2016.
  4. ^ VnExpress. “Leicester và hành trình 13 tháng từ bét bảng lên ngôi báu”. vnexpress.net.
  5. ^ a b c d Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên can Claudio Ranieri finally win a major title
  6. ^ a b “C. Ranieri”. Soccerway. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2016.
  7. ^ “Manager profile: Claudio Ranieri”. Premier League. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2018.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]