U-257 (tàu ngầm Đức)
Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-257 |
Đặt hàng | 23 tháng 9, 1939 |
Xưởng đóng tàu | Vegesacker Werft, Bremen |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 22 |
Đặt lườn | 22 tháng 2, 1941 |
Hạ thủy | 19 tháng 11, 1941 |
Nhập biên chế | 14 tháng 1, 1942 |
Tình trạng | Bị tàu frigate Canada HMCS Waskesiu, đánh chìm trong Đại Tây Dương, 24 tháng 2, 1944[1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 23 394 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: | Không |
U-257 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được sáu chuyến tuần tra, nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào. Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-257 bị tàu frigate Hải quân Hoàng gia Canada HMCS Waskesiu phối hợp cùng chiếc HMS Nene của Hải quân Hoàng gia Anh đánh chìm tại Đại Tây Dương vào ngày 24 tháng 2, 1944.
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
Chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]U-257 được đặt hàng vào ngày 23 tháng 9, 1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bremer-Vulkan-Vegesacker Werft ở Bremen vào ngày 22 tháng 2, 1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 19 tháng 11, 1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 14 tháng 1, 1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Heinz Rahe.[1]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]1942
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi hoàn thành việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 8, U-257 được điều sang Chi hạm đội U-boat 3 từ ngày 1 tháng 10, 1942 để hoạt động trên tuyến đầu.[1]
Chuyến tuần tra thứ nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi chuyển căn cứ hoạt động từ Kiel đến Bergen, Na Uy vào giữa tháng 9, 1942, U-257 khởi hành từ cảng này vào ngày 21 tháng 9 cho chuyến tuần tra đầu tiên chiến tranh tại Bắc Đại Tây Dương.[3] Nó băng qua khe GIUK giữa các quần đảo Shetland và Faroe để hoạt động tại vùng biển về phía Tây Ireland (Khu vực Tiếp cận phía Tây).[5] Tại đây vào ngày 5 tháng 10, trong lúc theo dõi Đoàn tàu HX 209, chiếc tàu ngầm bị một máy bay đối phương thả sáu quả bom tấn công, và bị hư hại đến mức phải kết thúc sớm chuyến tuần tra.[5] Nó đi đến cảng La Pallice, La Rochelle bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 18 tháng 10. La Pallice trở thành căn cứ hoạt động của chiếc tàu ngầm trong suốt bốn chuyến tuần tra tiếp theo.[3]
1944
[sửa | sửa mã nguồn]Chuyến tuần tra thứ sáu - Bị mất
[sửa | sửa mã nguồn]U-257 khởi hành từ cảng St. Nazaire vào ngày 2 tháng 1, 1944 cho chuyến tuần tra thứ sáu, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động tại khu vực Trung tâm Bắc Đại Tây Dương.[6] Vào ngày 24 tháng 2, ở vị trí về phía Bắc quần đảo Azores, sau khi bị đối phương phát hiện bằng sonar, nó bị tàu frigate Hải quân Hoàng gia Canada HMCS Waskesiu phối hợp cùng chiếc HMS Nene của Hải quân Hoàng gia Anh thả mìn sâu đánh chìm tại tọa độ 47°19′B 26°00′T / 47,317°B 26°T.[1][Ghi chú 1] 30 thành viên thủy thủ đoàn của U-257 đã tử trận, và có 19 người sống sót được cứu vớt và bị bắt làm tù binh chiến tranh.[1]
"Bầy sói" tham gia
[sửa | sửa mã nguồn]U-257 từng tham gia bảy bầy sói:
- Luchs (27 tháng 9 – 6 tháng 10, 1942)
- Falke (28 tháng 12, 1942 – 19 tháng 1, 1943)
- Landsknecht (19 – 28 tháng 1, 1943)
- Seewolf (25 – 30 tháng 3, 1943)
- Adler (7 – 13 tháng 4, 1943)
- Meise (13 – 20 tháng 4, 1943)
- Specht (21 – 25 tháng 4, 1943)
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Một cựu thành viên thủy thủ đoàn của HMCS Waskesiu cho rằng HMS Nene không trực tiếp tham gia tấn công tàu đối phương mà chỉ trợ giúp vào việc cứu vớt những người sống sót.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e f g h i j Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-257”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b c Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-257”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
- ^ a b Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-257 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-257 (sixth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Bishop, Chris (2006). Kriegsmarine U-Boats, 1939-45. London: Amber Books. ISBN 978-1-904687-96-2.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
- Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
- Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File. Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.
- Williamson, Gordon (2005). Wolf Pack: The Story of the U-boat in World War II. Osprey. ISBN 1841768723.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-257”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
- Hofmann, Markus. “U 257”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.