[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Steve Carell

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Steve Carell
Carell tại Liên hoan phim Montclair vào năm 2014
SinhSteven John Carell
16 tháng 8, 1962 (62 tuổi)
Concord, Massachusetts, U.S.
Trường lớpTrường đại học Denison (BFA)
Nghề nghiệp
  • Diễn viên
  • Diễn viên hài
  • Nhà sản xuất
Năm hoạt động1989 – nay
Phối ngẫu
Nancy Walls (cưới 1995)
Con cái2

Steven John Carell (/kəˈrɛl/; sinh ngày 16 tháng 8 năm 1962)[1] là một diễn viên và diễn viên hài người Mỹ. Anh đóng vai Michael Scott trong loạt phim The Office của NBC (2005–2011; 2013), bản chuyển thể của loạt phim Anh quốc cùng tên do Ricky GervaisStephen Merchant tạo ra, và Carell đồng thời cũng là nhà sản xuất, nhà biên kịch và đạo diễn thường xuyên trên loạt phim đó. Carell đã giành được nhiều giải thưởng cho diễn xuất của anh ở cả điện ảnh và truyền hình, bao gồm cả giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất - Phim truyền hình hoặc phim hài cho The Office. Anh được tạp chí Life công nhận là "Người đàn ông hài hước nhất nước Mỹ".[2]

Carell lần đầu được biết đến với tư cách là một phóng viên trên The Daily Show with Jon Stewart từ năm 1999 đến năm 2005. Anh sau đó đã đóng vai trong nhiều bộ phim hài, như Anchorman: The Legend of Ron Burgundy (2004) và phần phim nối tiếp năm 2013, cũng như là The 40-Year-Old Virgin (2005), Evan Almighty (2007), Điệp viên 86: Nhiệm vụ bất khả thi (2008), Đêm hẹn nhớ đời (2010), Crazy, Stupid, Love (2011), và The Way, Way Back (2013). Anh cũng lồng tiếng trong Over the Hedge (2006), Voi con và những người bạn (2008) và chuỗi phim Kẻ trộm mặt trăng (2010–nay).

Carell bắt đầu chuyển sang các vai diễn kịch tính hơn vào những năm 2010 với vai diễn huấn luyện viên đấu vật và kẻ sát nhân bị kết án John Eleuthère du Pont trong bộ phim chính kịch Foxcatcher (2014) giành được cho anh các đề cử giải Oscar cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất,[3] giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhấtgiải BAFTA cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất.[4] Anh cũng đóng vai chính trong Little Miss Sunshine (2006), The Big Short (2015), và Battle of the Sexes (2017), hai bộ phim sau mang về đề cử giải Quả cầu vàng thứ tám và thứ chín của anh.[5][6] Vào năm 2018, anh tái hợp lại với đạo diễn phim AnchormanThe Big Short Adam McKay cho bộ phim tiểu sử về Dick Cheney Vice, trong đó anh vào vai Donald Rumsfeld, và đóng vai nhà báo David Sheff trong bộ phim chính kịch Beautiful Boy.

Carell trở lại truyền hình với tư cách là người đồng sáng lập loạt phim hài với vợ anh Nancy Carell, Angie Tribeca (2016–2018) của đài TBS. Anh đóng vai Mitch Kessler trong bộ phim truyền hình dài tập của Apple TV+ Bản tin sáng (2019–nay), và anh được đề cử giải Primetime Emmy cho Nam diễn viên chính xuất sắc trong phim truyền hình dài tập cho vai này. Anh cũng đã trở lại làng hài với vai chính Tướng quân Mark R. Naird trong bộ phim sitcom Netflix Quân chủng vũ trụ (2020–2022).

Thời thơ ấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Carell được sinh ra tại bệnh viện EmersonConcord, Massachusetts, là con út trong bốn anh em trai, và lớn lên ở Acton, Massachusetts gần đó. Cha của anh, Edwin A. Carell (1925-2021),[7] là một kỹ sư điện,[8][9] và mẹ của anh, Harriet Theresa (nhũ danh Koch; 1925-2016),[10] là một y tá tâm thần. Người cậu ruột của anh, Stanley Koch, đã làm việc với nhà khoa học Allen B. DuMont để tạo ra các ống tia âm cực.[11] Cha anh là người gốc Ý và Đức và mẹ anh có tổ tiên là người Ba Lan.[12] Họ của cha anh ban đầu là Caroselli nhưng nó được đổi thành Carell vào những năm 1950.[13]

Carell được nưôi dạy theo Công giáo La Mã[14] và học tại trường Nashoba Brooks, trường Fenn, và trường Middlesex. Anh chơi khúc côn cầu trên băng và lacrosse khi còn học trung học.[15] Anh chơi sáo fife, biểu diễn cùng các thành viên khác trong gia đình của anh, và sau đó tham gia một nhóm tái hiện lại Trung đoàn thứ 10 Lincolnshire (Bắc Lincoln). Anh quy kết sự quan tâm về lịch sử vào nó,[16] kiếm được một bằng cấp về môn học tại trường đại học DenisonGranville, Ohio, vào năm 1984.[17][18]

Khi còn ở Denison, Carell là thành viên của Burpee's Seedy Theatrical Company, một đoàn kịch hài ngẫu hứng do sinh viên điều hành, và là một thủ môn trong đội khúc côn cầu của trường trong bốn năm.[19][20] Anh cũng đã dành thời gian làm một DJ dưới tên "Sapphire Steve Carell" tại WDUB, đài phát thanh của trường.[21]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Carell nói rằng anh là người đưa thư cho USPS tại Littleton, Massachusetts, nhưng đã nghỉ việc sau bảy tháng vì ông chủ của anh ta nói với anh rằng anh không giỏi công việc này và cần nhanh hơn.[22] Đầu sự nghiệp biểu diễn của mình, Carell đã biểu diễn trên sân khấu cho một công ty nhà hát lưu diễn cho trẻ em, sau đó trong vở hài nhạc kịch Knat Scatt Private Eye, và trong một quảng cáo truyền hình cho chuỗi nhà hàng Brown's Chicken vào năm 1989.[23]

The Dana Carvey Show (1996)

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1991, Carell biểu diễn cùng đoàn The Second City của Chicago nơi Stephen Colbert là người đóng thay của anh trong một thời gian. Carell diễn trong phim lần đầu tiên trong một vai diễn nhỏ trong Curly Sue. Vào mùa xuân năm 1996, anh là một diễn viên của The Dana Carvey Show, một chương trình hài kịch tạp kỷ có thời gian tồn tại ngắn ngủi trên ABC. Cùng với đồng diễn viên Colbert, Carell đã lồng tiếng cho Gary, một trong hai nhân vật chính trong The Ambiguously Gay Duo, phim hoạt hình do Robert Smigel sản xuất, được tiếp tục trên Saturday Night Live vào cuối năm đó. Tuy chương trình chỉ kéo dài bảy tập, The Dana Carvey Show được coi là đã tạo dựng sự nghiệp của Carell.[24] Anh đóng vai chính trong một số phim truyền hình tồn tại ngắn ngủi, bao gồm Come to PapaOver the Top. Anh xuất hiện với tư cách khách mời trong nhiều loạt phim như "Funny Girl," một tập phim của sitcom Just Shoot Me! Các vai diễn khác của anh bao gồm loạt phim hài kịch của Brad Hall, Watching Ellie (2002 – 2003) và Melinda và Melinda của Woody Allen.

The Daily Show (1999–2005)

[sửa | sửa mã nguồn]

Carell là phóng viên của The Daily Show từ năm 1999 đến 2005, với một số phân đoạn bao gồm "Even Stevphen" cùng với Stephen Colbert[25] và "Produce Pete."[26][27]

The Office (2005–2011)

[sửa | sửa mã nguồn]
Carell tại lễ trao giải của Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh năm 2010, cho mùa thứ sáu của The Office.

Vào năm 2005, Carell ký hợp đồng với NBC để đóng vai chính trong The Office, bản chuyển thể của phiên bản Anh Quốc cùng tên. Trong loạt phim, một phim tài liệu châm biếm về cuộc sống tại một công ty vật dụng giấy, Carell đóng vai Michael Scott, giám đốc khu vực có tính biệt lập của công ty Dunder Mifflin, ở Scranton, Pennsylvania. Mặc dù mùa đầu tiên của bộ phim chuyển thể bị xếp hạng trung bình, NBC đã gia hạn nó cho một mùa mới vì đoán rằng phim The 40-Year-Old Virgin mà anh tham gia sẽ gặt hái thành công,[28] và loạt phim sau đó đã thành công rực rỡ. Carell đã giành được giải Quả cầu vàngGiải thưởng của Hiệp hội phê bình truyền hình trong năm 2006 cho vai diễn trong The Office. Anh đã nhận được sáu đề cử giải Primetime Emmy[29] cho vai diễn của mình trong loạt phim (2006 - 2011). Carell đã kiếm được khoảng 175,000 đô la Mỹ cho mỗi tập của mùa thứ ba của The Office, gấp đôi mức lương của anh trong hai mùa trước. Trong một cuộc phỏng vấn với Entertainment Weekly, anh bình luận về mức lương của mình, nói rằng, "Bạn không muốn mọi người nghĩ rằng bạn là một kẻ ngốc được nuông chiều. Mức lương có thể vô lý. Mặt khác, rất nhiều người đang kiếm được rất nhiều tiền từ những chương trình như thế này."[30]

Carell được phép có "thời gian linh động" quá trình quay phim để làm việc cho các bộ phim chiếu rạp. Carell làm việc cho bộ phim hài Evan Almighty trong thời gian gián đoạn sản xuất vào mùa thứ hai của The Office.[31][cần nguồn tốt hơn] Quá trình sản xuất bị gián đoạn vào giữa mùa thứ tư của The Office vì Carell và những người khác từ chối đi làm khi cuộc biểu tình của Hiệp hội Nhà văn Hoa Kỳ năm 2007 đang diễn ra. Carell, một thành viên của Hiệp hội Nhà văn Hoa Kỳ,[32] đã biên kịch cho hai tập của The Office: "Casino Night" và "Survivor Man." Cả hai tập phim đều được khen ngợi, và Carell đã giành được Giải thưởng Hiệp hội Nhà văn Hoa Kỳ cho "Casino Night."[33] Vào ngày 29 tháng 4 năm 2010, Carell tuyên bố anh sẽ rời chương trình khi hợp đồng của anh hết hạn vào cuối mùa truyền hình 2010 - 2011 vì anh muốn tập trung vào sự nghiệp điện ảnh của mình.[34] Tuy nhiên, theo các cuộc phỏng vấn trong The Office: The Untold Story of the Greatest Sitcom of the 2000s, Carell không thực sự có kế hoạch rời đi vào thời điểm đó và chỉ đang "suy nghĩ thành tiếng" trong cuộc phỏng vấn, nhưng sau khi tuyên bố của anh không thể gây ra phản ứng từ NBC, anh ấy quyết định tốt nhất là nên rời đi.[35]

Tập cuối cùng của anh với tư cách là nhân vật chính, "Goodbye, Michael," được phát sóng ngày 28 tháng 4 năm 2011, với cảnh quay cuối cùng cho thấy Michael trả lại micrô của anh cho đoàn phim tài liệu hư cấu, trước khi bước lên máy bay đến Colorado để đoàn tụ với vị hôn thê của mình, Holly Flax, in Boulder, Colorado. Do đó, lời thoại cuối cùng của anh trong tập với Pam Beesly không được nghe thấy. Mặc dù anh được mời trở lại cho phần cuối của loạt phim vào năm 2013, Carell ban đầu từ chối tin rằng nó sẽ đi ngược lại với nhân vật của anh.[36] Sau cùng, Carell đã đóng lại vai diễn này một thời gian ngắn trong phần cuối của loạt phim.[37][38]

Vào năm 2018, trong ngày họp báo cho phim Welcome to Marwen, Carell được hỏi về việc tham gia vào sự hồi sinh của loạt phim. Carell đã nói với phóng viên Christina Radish của Collider, "Tôi sẽ nói với cô, không... Loạt phim bây giờ đã nổi tiếng hơn nhiều so với khi lúc nó vẫn đang được phát sóng. Tôi không thể thấy hai phiên bản đó giống nhau, và tôi nghĩ hầu hết mọi người sẽ muốn nó giống nhau, nhưng nó sẽ không như vậy. Rốt cuộc, tôi nghĩ có lẽ tốt nhất là nên để nó yên nghỉ và cứ để nó tồn tại như những gì nó vốn có... Tôi chỉ không muốn mắc sai lầm khi tạo ra một phiên bản kém tốt hơn của nó. Tỷ lệ cược sẽ không có lợi cho nó về mặt nó lấy lại chính xác những gì nó là vào lúc đầu."[39]

Các vai diễn phim hài (2004–2013)

[sửa | sửa mã nguồn]
Carell tại Lễ trao giải Oscar năm 2007
Carell tại buổi ra mắt phim Crazy, Stupid, Love, 2011

Vai diễn điện ảnh chính đầu tiên của Carell là nhà khí tượng học Brick Tamland trong bộ phim hài ăn khách năm 2004 Anchorman: The Legend of Ron Burgundy. Ấn tượng bởi diễn xuất của Carell trong phim, nhà sản xuất Anchorman Judd Apatow đã tiếp cận Carell về việc cùng nhau tạo ra một bộ phim, và Carell nói với anh ta về một ý tưởng của anh về một người đàn ông trung niên vẫn còn là một đồng trinh.[40] Kết quả là bộ phim The 40-Year-Old Virgin năm 2005, mà Carell và Apatow phát triển và viết cùng nhau, với sự tham gia của Carell trong vai nhân vật chính. Bộ phim đã thu về 109 triệu đô la doanh thu phòng vé trong nước[41] và đưa anh trở thành một nam chính nổi tiếng. Nó cũng mang về cho Carell một Giải thưởng Điện ảnh và Truyền hình của MTV cho Màn trình diễn hài hay nhất[42] và một đề cử Giải thưởng Hiệp hội Nhà văn Hoa Kỳ, cùng với Apatow, cho Kịch bản gốc hay nhất.[cần dẫn nguồn]

Carell đóng vai chú Arthur, bắt chước phong cách camp của nhân vật gốc của Paul Lynde trong Bewitched, một bộ phim truyền hình chuyển thể với sự tham gia của Nicole Kidman và Will Ferrell. Anh cũng lồng tiếng cho Hammy the Squirrel trong bộ phim hoạt hình năm 2006, Over the Hedge và Ned McDodd, thị trưởng của Whoville, trong bộ phim hoạt hình năm 2008 Voi con và những người bạn. Anh đóng vai chính trong Little Miss Sunshine trong năm 2006, với vai chú Frank.[43]

Vai diễn của anh trong các bộ phim Anchorman, The 40-Year-Old Virgin, và Bewitched thiết lập Carell với tư cách là thành viên của "Frat Pack," một nhóm diễn viên thường xuất hiện trong các bộ phim cùng nhau, bao gồm Ben Stiller, Owen Wilson, Will Ferrell, Jack Black, Vince Vaughn, Paul Rudd, và Luke Wilson. Carell đóng vai nhân vật chính của Evan Almighty, phần tiếp theo của Bruce Almighty, đóng lại vai Evan Baxter, người hiện là Nghị sĩ Hoa Kỳ. Bộ phim nhận được hầu hết các đánh giá tiêu cực. Carell đóng vai chính trong bộ phim Dan in Real Life năm 2007, đóng chung với Dane CookJuliette Binoche.

Bạn diễn Miranda Cosgrove và Carell tại buổi ra mắt phim Kẻ trộm Mặt Trăng 2, tháng 6 năm 2013

Carell đóng vai Maxwell Smart trong bộ phim Điệp viên 86: Nhiệm vụ bất khả thi năm 2008, một bộ phim chuyển thể từ loạt phim truyền hình do Don Adams đóng vai chính. Nó đã thành công, thu về hơn 230 triệu đô la trên toàn thế giới.[44] Trong năm 2007, anh được mời tham gia Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh.[45][46] Carell đóng vai chính với Tina Fey trong bộ phim Đêm hẹn nhớ đời vào cuối năm 2008 và bộ phim được phát hành vào ngày 9 tháng 4 năm 2010 tại Hoa Kỳ. Anh lồng tiếng cho Gru, nhân vật chính trong bộ phim Kẻ trộm mặt trăng của Universal cùng với Russell Brand, Miranda Cosgrove, và Kristen Wiig. Anh tiếp tục đảm nhiệm lại vai diễn trong phần tiếp theo năm 2013 Kẻ trộm Mặt Trăng 2 và trong phần thứ ba của loạt phim Kẻ trộm Mặt Trăng 3 vào năm 2017. In 2008, Carousel inked a first look deal with Warner Bros.[47] Vào năm 2009, công ty sản xuất Carousel Productions của anh đã cho ra mắt mảng truyền hình và ký hợp đồng với Universal Media Studios.[48]

Anh có một số dự án khác đang được thực hiện, bao gồm cả bản làm lại của bộ phim The Bobo của Peter Sellers năm 1967. Anh đang làm công việc lồng tiếng trong quảng cáo cho kẹo cao su Extra của Wrigley. Carell đã thành lập một bộ phận truyền hình của công ty sản xuất của mình, Carousel Productions, và công ty đã ký hợp đồng tổng thể ba năm với Universal Media Studios, hãng phim đứng sau loạt phim hài NBC của anh. Thom Hinkle và Campbell Smith của North South Prods., hai cựu nhà sản xuất trên The Daily Show của Comedy Central, được thuê để quản lý các hoạt động truyền hình của Carousel.[49]

Các vai diễn phim chính kịch (2014–2019)

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 2014, Carell đóng vai chính trong bộ phim tội phạm có thật Foxcatcher cùng với Mark RuffaloChanning Tatum trong đó Carell đóng vai triệu phú và kẻ giết người bị kết án John Eleuthère du Pont. Nó được công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Cannes.[50] Carell được đề cử giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhấtgiải Oscar cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất. In 2015, Carell đóng lại vai Gru cho một vai khách mời trong bộ phim Minions. Carell đóng vai nhà hoạt động Steven Goldstein trong bộ phim về quyền của người đồng tính Freeheld, thay thế Zach Galifianakis, người rời bộ phim do xung đột lịch trình.[51] Phim có sự tham gia của Julianne Moore, Elliot Page, và Michael Shannon, và được phát hành vào tháng 10 năm 2015.

Anh tiếp nối phim trước với một bộ phim tiểu sử khác, The Big Short, trong đó anh đóng vai chủ ngân hàng Steve Eisman, được đổi tên trong phim thành Mark Baum. Do Adam McKay đạo diễn, phim có sự tham gia của Christian Bale, Ryan Gosling, và Brad Pitt, và được phát hành vào tháng 12 năm 2015. Phim đã mang về cho Carell một đề cử giải Quả cầu Vàng cho Nam diễn viên xuất sắc nhất. Phim cũng được đề cử cho giải Oscar cho phim xuất sắc nhất..

Vào năm 2016, anh đã thay thế Bruce Willis trong bộ phim của Woody Allen Giới thượng lưu (2016), cùng với Kristen StewartJesse Eisenberg.[52] Bộ phim được công chiếu lần đầu tại liên hoan phim Cannes lần thứ 69 khai mạc liên hoan phim. Bộ phim được đánh giá tốt với sự đồng thuận trên trang Rotten Tomatoes, "Hình ảnh đáng yêu của Giới thượng lưu và màn trình diễn quyến rũ làm tròn một bộ phim hài nhẹ nhàng của Allen thời kỳ cuối mà những thú vui chân chính thực sự bù đắp cho tình tiết đễ dự đoán của nó."[53]

Vào năm 2017, Carell đóng vai chính trong bộ phim hài kịch tiểu sử Battle of the Sexes, đóng vai ngôi sao quần vợt Bobby Riggs, với Emma Stone đồng đóng vai Billie Jean King. Bộ phim nhận được đề cử Quả cầu vàng cho cả Carell và Stone.[54] Carell cũng đóng vai chính Larry "Doc" Shepherd trong bộ phim Last Flag Flying.

Vào năm 2018, Carell đóng vai chính trong ba bộ phim. Anh đóng vai chính bộ phim Beautiful Boy trong vai người cha ngoài đời thực David Sheff, có con trai Nic (Timothée Chalamet) phải vật lộn với chứng nghiện ma túy. Anh cũng đóng vai Donald Rumsfeld trong bộ phim châm biếm chính trị của Adam McKay, Vice, về cuộc đời của cựu Phó Tổng thống Dick Cheney (Christian Bale). Bộ phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều,[55] và tiếp tục được đề cử tám giải Oscar, bao gồm cả Phim xuất sắc nhất[56] Vai diễn thứ ba trong năm 2018 của anh là Mark Hogancamp của Marwencol trong phim Welcome to Marwen của Robert Zemeckis. Bộ phim đã nhận được đánh giá 32% trên Rotten Tomatoes, với sự đồng thuận của giới phê bình là "Welcome to Marwen có hiệu ứng rực rỡ và một câu chuyện hấp dẫn đáng buồn, nhưng cảm giác rời rạc và kịch bản vụng về của bộ phim khiến lời mời này dễ bị từ chối."[57] Bộ phim là một thất bại phòng vé, thu về 12.7 triệu đô la so với kinh phí khoảng 49 triệu đô la.[58]

Quay trở lại truyền hình (2019–nay)

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 2019, Carell trở lại truyền hình để đóng vai chính trong bộ phim truyền hình Apple TV+ Bản tin sáng cùng với Reese WitherspoonJennifer Aniston.[59] Carell đóng vai Mitch Kessler, một người dẫn chương trình tin tức buổi sáng đang đấu tranh để duy trì sự xác đáng sau khi bị sa thải do cáo buộc hành vi sai trái tình dục. Bản tin sáng nhận được đơn đặt hàng hai mùa từ Apple, với mùa đầu tiên được công chiếu vào mùa thu năm 2019[60] và mùa thứ hai dự định ra mắt vào năm 2020.[61] Với màn trình diễn của anh trong mùa đầu tiên, Carell được đề cử giải Primetime Emmy cho Nam diễn viên chính xuất sắc trong bộ phim truyền hình dài tập, đề cử Emmy thứ mười một của anh nói chung.[62] Carell ban đầu ký hợp đồng một năm với Apple để chỉ đóng vai chính trong mùa đầu tiên nhưng anh ấy ký hợp đồng đóng vai chính trong mùa thứ hai vào tháng 10 năm 2019.[63]

Kể từ tháng 5 năm 2020, Carell cũng đóng vai chính trong loạt phim hài về nơi làm việc của Netflix Quân chủng vũ trụ, dựa trên nhánh dịch vụ chiến tranh không gian của Lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ: Lực lượng Không gian Hoa Kỳ.[64] Carell tạo ra và sản xuất loạt phim Quân chủng vũ trụ với Greg Daniels, người tạo ra và sản xuất loạt phim The Office. Carell cũng đã viết tập thử nghiệm với Daniels. Loạt phim đã được làm mới cho mùa thứ hai vào tháng 11 năm 2020.[65]

Carell đóng vai chính trong bộ phim hài chính trị Irresistible, do Jon Stewart viết kịch bản và đạo diễn.[66] Ban đầu bộ phim được ấn định ra rạp vào tháng 5 năm 2020. Do đại dịch COVID-19 tại Hoa Kỳ, bộ phim được phát hành trên Premium VOD và một số rạp chọn lọc vào ngày 26 tháng 6 năm 2020.

Vào năm 2022, Carell đã đảm nhiệm lại vai Gru trong bộ phim Minions: Sự trỗi dậy của Gru.

Đời sống cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]
Carell và vợ của anh Nancy tại Lễ trao giải Oscar năm 2010

Vào ngày 5 tháng 8 năm 1995, Carell kết hôn với diễn viên của Saturday Night Live Nancy Walls, người mà anh gặp khi cô còn là sinh viên trong một lớp học ngẫu hứng mà anh đang giảng dạy tại Trung tâm Huấn luyện The Second City.[67] Họ có một cô con gái tên là Elisabeth Anne (sinh tháng 5 năm 2001) và một cậu con trai tên là John (sinh tháng 6 năm 2004).[68]

Carrel và vợ anh đã xuất hiện cùng nhau trong các bộ phim hài The 40-Year-Old VirginTri kỷ ngày tận thế, cũng như loạt phim hài The Daily ShowThe Office. Họ cũng đồng sáng tạo loạt phim hài Angie Tribeca.

Vào tháng 2 năm 2009, Carell mua Cửa hàng Tổng hợp Marshfield Hills ở Marshfield, Massachusetts.[69][70]

Trong một cuộc phỏng vấn với 60 Minutes, Carell trích dẫn George Carlin, John Cleese, Bill Cosby, Steve Martin, và Peter Sellers là nguồn cảm hứng của anh cho diễn xuất và hài kịch.

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Biểu tượng
Biểu thị những bộ phim chưa được phát hành Biểu thị những bộ phim chưa được phát hành
Năm Tựa đề Vai diễn Ghi chú
1991 Curly Sue Tesio Được ghi danh là "Steven Carell"
1998 Tomorrow Night Mailroom Guy without Glasses
Homegrown Party Extra with Funny Pants Không được ghi danh
2003 Street of Pain Mark Phim ngắn
Bruce Almighty Evan Baxter Được ghi danh là "Steven Carell"
2004 Sleepover Sĩ quan Sherman Shiner
Anchorman: The Legend of Ron Burgundy Brick Tamland
Wake Up, Ron Burgundy: The Lost Movie Ra mắt trực tiếp trên DVD
2005 Melinda and Melinda Walt Wagner
Cô vợ phù thủy Chú Arthur
The 40-Year-Old Virgin Andy Stitzer Đồng thời là nhà văn và nhà sản xuất điều hành
2006 Little Miss Sunshine Frank Ginsburg
American Storage Rich Phim ngắn
Over the Hedge Hammy Lồng tiếng
Hammy's Boomerang Adventure Lồng tiếng, phim ngắn
2007 Evan Almighty Evan Baxter
Dính bầu Chính anh Vai khách mời không được ghi danh
Dan in Real Life Dan Burns
Stories USA Mark Ronson Phân đoạn: "Street of Pain"
2008 Voi con và những người bạn Ned McDodd Lồng tiếng
Điệp viên 86: Nhiệm vụ bất khả thi Maxwell Smart Đồng thời là nhà sản xuất điều hành
2010 Đêm hẹn nhớ đời Phil Foster
Kẻ trộm Mặt Trăng Gru Lồng tiếng
Dinner for Schmucks Barry Speck
2011 Crazy, Stupid, Love Cal Weaver Đồng thời là nhà sản xuất
2012 Tri kỷ ngày tận thế Dodge Petersen
Hope Springs Dr. Bernie Feld
2013 The Incredible Burt Wonderstone Burt Wonderstone Đồng thời là nhà sản xuất
Kẻ trộm Mặt Trăng 2 Gru Lồng tiếng
The Way, Way Back Trent
Anchorman 2: The Legend Continues Brick Tamland
2014 Neighbors TV News Vai khách mời không được ghi danh
Alexander và một ngày tồi tệ, kinh khủng, chán nản, bực bội Ben Cooper
Foxcatcher John Eleuthère du Pont
2015 Minions Young Gru Vai lồng tiếng khách mời
Freeheld Steven Goldstein
The Big Short Mark Baum
2016 Giới thượng lưu Phil
2017 Kẻ trộm Mặt Trăng 3 Gru và Dru Lồng tiếng
Battle of the Sexes Bobby Riggs
Last Flag Flying Larry "Doc" Shepherd
2018 Beautiful Boy David Sheff
Vice Donald Rumsfeld
Welcome to Marwen Mark Hogancamp
2020 Irresistible Gary Zimmer
2022 Minions: Sự trỗi dậy của Gru Gru Lồng tiếng
2023 Asteroid City Quản lý nhà nghỉ
2024 Kẻ trộm mặt trăng 4 Gru Lồng tiếng

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai diễn Ghi chú
1996 The Dana Carvey Show Nhiều nhân vật 8 tập; đồng thời là biên kịch
1996–2011 Saturday Night Live Gary Lồng tiếng
13 tập
1997 Over the Top Yorgo Galfanikos 12 tập
1998 Just Shoot Me! Mr. Weiland Tập: "Funny Girl"
1999–2005 The Daily Show with Jon Stewart Chính anh (phóng viên) 277 tập
2000 Strangers with Candy Giáo viên Tập: "Behind Blank Eyes"
2002–2003 Watching Ellie Edgar 16 tập
2004 Fillmore! Mr. Delancey Lồng tiếng
Tập: "Field Trip of the Just"
Come to Papa Blevin 12 tập
2005–2011;
2013
The Office Michael Scott 149 tập
Biên kịch ("Casino Night" và "Survivor Man")
Đạo diễn ("Broke", "Secretary's Day", và "Garage Sale")
Nhà sản xuất (mùa 3–7)
2005; 2008;
2018
Saturday Night Live Chính anh (dẫn chương trình) 3 tập
2007 The Naked Trucker and T-Bones Show Brian Tập: "T-Bones TV"
2011 Life's Too Short Chính anh Tập #1.4
2012 The Simpsons Dan Gillick Lồng tiếng
Tập: "Penny-Wiseguys"
2013 Web Therapy Jackson Pickett 3 tập
Pawn Stars Chính anh Khách mời
2016–2018 Angie Tribeca 40 tập
Người tạo và nhà sản xuất điều hành

Biên kịch và đạo diễn ("P ilot")

2018 Too Funny to Fail Chính anh Phim tài liệu của Hulu
2019 The Kelly Clarkson Show Chính anh (người giới thiệu) Tập: "Dwayne Johnson"
2019–2021 Bản tin sáng Mitch Kessler 14 tập
2020–2022 Quân chủng vũ trụ Mark R. Naird 17 tập; đồng thời là người tạo ra, biên kịch và nhà sản xuất điều hành
2022 The Patient Alan Strauss Loạt phim giới hạn; đồng thời là nhà sản xuất điều hành

Trò chơi điện tử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai diễn lồng tiếng
2002 Outlaw Golf Bình luận viên
2003 Outlaw Volleyball Bình luận viên
2010 Kẻ trộm Mặt Trăng Gru

Sê-ri web

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai diễn Ghi chú
2020 Some Good News Phóng viên giải trí Tập 1

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Vì những đóng góp của mình cho ngành công nghiệp điện ảnh, Carell đã nhận được ngôi sao thứ 2.570 trên Đại lộ Danh vọng Hollywood vào năm 2016.[71]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Team Coco (9 tháng 8 năm 2012). “Steve Carell Improvises some new Characters”. Lưu trữ bản gốc 10 Tháng mười một năm 2019. Truy cập 22 Tháng mười một năm 2015 – qua YouTube.
  2. ^ “Steve Carell Television Academy”. Academy of Television Arts & Sciences. Lưu trữ bản gốc 30 Tháng Một năm 2019. Truy cập 15 Tháng mười một năm 2014.
  3. ^ “The 87th Academy Awards – 2015”. Academy of Motion Picture Arts and Sciences. Lưu trữ bản gốc 15 Tháng mười hai năm 2019. Truy cập 14 tháng Bảy năm 2017.
  4. ^ “Film – Supporting Actor in 2015”. BAFTA. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng tám năm 2017. Truy cập 14 tháng Bảy năm 2017.
  5. ^ Moraski, Lauren (10 tháng 12 năm 2015). “Golden Globe Awards 2016 nominees list”. CBS News. Lưu trữ bản gốc 29 tháng Mười năm 2017. Truy cập 20 Tháng hai năm 2018.
  6. ^ Rubin, Rebecca (11 tháng 12 năm 2017). “Golden Globe Nominations: Complete List”. Variety. Lưu trữ bản gốc 14 Tháng mười hai năm 2017. Truy cập 20 Tháng hai năm 2018.
  7. ^ “Edwin Alfred Carell Obituary - Lady Lake, Florida, Beyers Funeral Home and Crematory | Tribute Archive”. www.tributearchive.com (bằng tiếng Anh). Truy cập 30 Tháng Ba năm 2021.
  8. ^ “Ancestry of Steven John Carell”. Ancestry.com. Bản gốc lưu trữ 17 tháng Mười năm 2009. Truy cập 21 tháng Bảy năm 2012.
  9. ^ Gostin, Nicki (22 tháng 6 năm 2007). “As Nice as He Is Mean”. Newsweek. Bản gốc lưu trữ 11 Tháng Một năm 2013. Truy cập 30 Tháng sáu năm 2007.
  10. ^ “Obituary: Harriet T. (Koch) Carell”. Boston Globe. 11 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 23 Tháng hai năm 2020. Truy cập 25 tháng Mười năm 2019 – qua Legacy.com.
  11. ^ “Steve Carell Biography”. Tiscali.co.uk. Bản gốc lưu trữ 9 Tháng hai năm 2009. Truy cập 20 Tháng hai năm 2012.
  12. ^ Bizio, Silvia (30 tháng 12 năm 2015). “Steve Carell”. Golden Globe Awards. Lưu trữ bản gốc 14 Tháng sáu năm 2018. Truy cập 25 tháng Mười năm 2019.
  13. ^ Lipworth, Elaine (28 tháng 6 năm 2013). “Steve Carell: My family values”. The Guardian. ISSN 0261-3077. Lưu trữ bản gốc 22 Tháng mười hai năm 2019. Truy cập 27 Tháng Ba năm 2020.
  14. ^ Pringle, Gill (27 tháng 7 năm 2007). “Steve Carell: The American Ricky Gervais is now a major movie star”. The Independent. London. Bản gốc lưu trữ 30 Tháng sáu năm 2010. Truy cập 26 Tháng sáu năm 2010. Carell has no witty speech rehearsed when you ask the Catholic comic...
  15. ^ Cadwalladr, Carole (12 tháng 8 năm 2010). “Steve Carell interview”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc 9 Tháng tư năm 2019. Truy cập 23 Tháng mười một năm 2012.
  16. ^ “Steve Carell Plays the Fife”. Late Show with David Letterman. 20 tháng 7 năm 2010. CBS. Bản gốc lưu trữ 23 Tháng hai năm 2020. Truy cập 21 tháng Bảy năm 2010. Video
  17. ^ “Some Famous History Majors”. Bethel University College of Arts & Sciences. 2011. Bản gốc lưu trữ 27 tháng Chín năm 2011. Truy cập 9 Tháng tám năm 2014.
  18. ^ “Steve Carell's Denison Yearbook Photo Makes Appearance on Late Show”. Denison University. 21 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ 19 tháng Chín năm 2011. Truy cập 20 Tháng hai năm 2012.
  19. ^ “History & Company Members”. Burpee's Seedy Theatrical Company. 2008. Bản gốc lưu trữ 17 Tháng Một năm 2012. Truy cập 20 Tháng hai năm 2012.
  20. ^ Hoppes, Lynn (20 tháng 3 năm 2013). “Steve Carell on hockey, 'Anchorman' sequel”. ESPN. Lưu trữ bản gốc 18 tháng Bảy năm 2016. Truy cập 9 Tháng tám năm 2014.
  21. ^ 'Sapphire' Steve Carell '84 gives a shout-out to campus radio station”. Denison University. 28 tháng 7 năm 2011. Bản gốc lưu trữ 5 Tháng Ba năm 2012. Truy cập 19 Tháng Một năm 2015.
  22. ^ Interview: Steve Carell (March 20, 2006). InFANity: The Office, TV Guide Channel.
  23. ^ Steve Carell in 1989 Brown's Chicken TV commercial. 15 tháng 8 năm 2008. Bản gốc lưu trữ 28 tháng Mười năm 2021. Truy cập 21 tháng Bảy năm 2012 – qua YouTube.
  24. ^ Itzkoff, Dave (7 tháng 5 năm 2009). “Comedy Ahead of Its Time (if That Time Ever Comes)”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc 10 Tháng mười một năm 2019. Truy cập 9 tháng Năm năm 2010.
  25. ^ Lewis, Hilary (23 tháng 11 năm 2014). “Stephen Colbert and Steve Carell on Running From the KKK and the Value of Being 'Nauseated by Food'. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc 10 Tháng mười một năm 2019. Truy cập 25 tháng Mười năm 2019.
  26. ^ Bennett, Laura; Hess, Amanda; Harris, Aisha; Mathis-Lilley, Ben; Pesca, Mike; Roth, Gabriel; Smith, Paul; Stahl, Jeremy; Vuolo, Mike (6 tháng 8 năm 2015). “The Most Jon Stewart Moments in the History of The Daily Show With Jon Stewart”. Slate. Lưu trữ bản gốc 17 tháng Bảy năm 2019. Truy cập 25 tháng Mười năm 2019.
  27. ^ Rudolph, Ileane (27 tháng 7 năm 2015). “Alumni Association: A roundup of The Daily Show's coolest Graduates”. TV Guide: 21–22.
  28. ^ Ryan, Maureen (23 tháng 2 năm 2006). “The Watcher: 'Office' promotions pay off in a big way”. Chicago Tribune. Lưu trữ bản gốc 7 Tháng mười một năm 2016. Truy cập 9 Tháng tám năm 2014.
  29. ^ “Steve Carell Emmy Nominated”. Emmys.com. Lưu trữ bản gốc 18 Tháng Ba năm 2012. Truy cập 20 Tháng hai năm 2012.
  30. ^ Lynette, Rice (30 tháng 3 năm 2007). “Deal or No Deal”. Entertainment Weekly. tr. 34.
  31. ^ “Tracking”. TV.com. Bản gốc lưu trữ 3 Tháng mười một năm 2013. Truy cập 9 Tháng mười một năm 2006.
  32. ^ Woodson, Alex (8 tháng 11 năm 2007). “WGA uses YouTube to state case”. The Hollywood Reporter. Bản gốc lưu trữ 11 Tháng Một năm 2013. Truy cập 9 Tháng tám năm 2014.
  33. ^ The Office - IMDb, lưu trữ bản gốc 24 Tháng mười một năm 2020, truy cập 23 Tháng tám năm 2020
  34. ^ “Steve Carell confirms Office exit”. BBC News (bằng tiếng Anh). 29 tháng 6 năm 2010. Lưu trữ bản gốc 24 Tháng sáu năm 2016. Truy cập 23 Tháng tám năm 2020.
  35. ^ Makuch, Eddie (26 tháng 3 năm 2020). “Why Did Steve Carell Leave The Office? A New Book Reveals The Juicy Details”. GameSpot. Lưu trữ bản gốc 27 Tháng Ba năm 2020. Truy cập 28 Tháng Ba năm 2020.
  36. ^ Ausiello, Michael (24 tháng 1 năm 2013). “Steve Carell Formally Nixes Office Series Finale Comeback: 'It Didn't Make Sense'. TVLine. Lưu trữ bản gốc 26 Tháng Một năm 2013. Truy cập 24 Tháng Một năm 2013.
  37. ^ Ausiello, Michael (6 tháng 5 năm 2013). “Exclusive: Steve Carell Back for The Office Finale”. TVLine. Lưu trữ bản gốc 9 tháng Năm năm 2013. Truy cập 9 tháng Năm năm 2013.
  38. ^ Holloway, Diane (16 tháng 8 năm 2005). “Steve Carell's 42, a 'Virgin' and the worst boss ever”. Austin American-Statesman. Bản gốc lưu trữ 11 Tháng tám năm 2007. Truy cập 30 Tháng mười hai năm 2006.
  39. ^ Goldberg, Matt (19 tháng 12 năm 2018). “Steve Carell Explains Why He Won't Do a Reunion for 'The Office'. Collider. Lưu trữ bản gốc 20 tháng Chín năm 2019. Truy cập 22 tháng Chín năm 2019.
  40. ^ Murray, Rebecca (4 tháng 3 năm 2014). “40 Year Old Virgin – Steve Carell Interview”. About.com Movies. Bản gốc lưu trữ 15 Tháng mười hai năm 2013. Truy cập 9 Tháng tám năm 2014.
  41. ^ “The 40-Year-Old Virgin (2005)”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc 2 Tháng tám năm 2019. Truy cập 24 tháng Chín năm 2020.
  42. ^ “Movie Awards 2006”. MTV. Lưu trữ bản gốc 16 Tháng tư năm 2016. Truy cập 11 tháng Năm năm 2017.
  43. ^ Douglas, Edward (26 tháng 7 năm 2006). “Little Miss Sunshine Movie Review”. ComingSoon.net. Lưu trữ bản gốc 21 Tháng sáu năm 2008. Truy cập 9 Tháng tám năm 2014.
  44. ^ “Get Smart”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc 24 Tháng hai năm 2018. Truy cập 22 Tháng hai năm 2018.
  45. ^ “Film Academy Invites 115 New Members”. KABC-TV. 19 tháng 6 năm 2007. Bản gốc lưu trữ 21 Tháng hai năm 2008. Truy cập 21 tháng Bảy năm 2012.
  46. ^ “Academy Invites 115 to Become Members” (Thông cáo báo chí). California: Academy of Motion Picture Arts and Sciences. 18 tháng 6 năm 2007. Bản gốc lưu trữ 18 Tháng mười hai năm 2008. Truy cập 19 Tháng Một năm 2015.
  47. ^ Fleming, Michael (7 tháng 10 năm 2008). “Carell inks first-look deal with WB”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập 26 Tháng tư năm 2021.
  48. ^ Fleming, Michael (14 tháng 1 năm 2009). “Steve Carell's Carousel forms TV arm”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập 22 Tháng hai năm 2021.
  49. ^ Andreeva, Nellie (13 tháng 1 năm 2009). “Steve Carell makes foray into TV prod'n”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc 30 tháng Bảy năm 2018. Truy cập 19 Tháng Một năm 2015.
  50. ^ “Foxcatcher”. Rotten Tomatoes. 25 tháng 5 năm 2013. Lưu trữ bản gốc 14 Tháng tám năm 2014. Truy cập 9 Tháng tám năm 2014.
  51. ^ Fleming, Mike Jr. (26 tháng 8 năm 2014). “Steve Carell Replaces Zach Galifianakis In 'Freeheld'. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc 26 tháng Mười năm 2015. Truy cập 2 Tháng mười một năm 2015.
  52. ^ Handler, Rachel (29 tháng 8 năm 2015). “Steve Carell has replaced Bruce Willis in Woody Allen's Latest”. Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc 1 tháng Mười năm 2020. Truy cập 25 tháng Mười năm 2019.
  53. ^ “Café Society (2016)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc 20 tháng Bảy năm 2020. Truy cập 25 tháng Mười năm 2019.
  54. ^ McClintock, Pamela (9 tháng 1 năm 2018). “Making of 'Battle of the Sexes': How Emma Stone Mastered the Signature Move of a Tennis Legend”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc 23 tháng Chín năm 2020. Truy cập 25 tháng Mười năm 2019.
  55. ^ “Vice (2018)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc 9 tháng Mười năm 2019. Truy cập 25 tháng Mười năm 2019.
  56. ^ “Vice”. IMDb. Lưu trữ bản gốc 25 Tháng mười hai năm 2019. Truy cập 25 tháng Mười năm 2019.
  57. ^ “Welcome to Marwen (2018)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc 23 tháng Bảy năm 2019. Truy cập 25 tháng Mười năm 2019.
  58. ^ “Welcome to Marwen (2018) – Financial Information”. The Numbers. Lưu trữ bản gốc 25 tháng Mười năm 2019. Truy cập 25 tháng Mười năm 2019.
  59. ^ Andreeva, Nellie (23 tháng 10 năm 2018). “Steve Carell To Star in Apple's Morning Show Series With Reese Witherspoon & Jennifer Aniston”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc 23 tháng Mười năm 2018. Truy cập 18 Tháng mười một năm 2018.
  60. ^ Witherspoon, Reese (25 tháng 3 năm 2019). “So excited to announce my new @apple show at the #appleevent! It's called The Morning Show ☀️and it reveals what happens in the fast-paced...”. Instagram. Lưu trữ bản gốc 15 tháng Năm năm 2019. Truy cập 9 Tháng tám năm 2019.
  61. ^ “Here's When 'The Morning Show' Will Be Back With More BTS News Chaos”. Bustle. Lưu trữ bản gốc 29 Tháng mười hai năm 2019. Truy cập 29 Tháng mười hai năm 2019.
  62. ^ “Steve Carell”. Television Academy (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc 30 Tháng Một năm 2019. Truy cập 3 Tháng mười một năm 2020.
  63. ^ Andreeva, Nellie (5 tháng 10 năm 2020). 'The Morning Show' To Resume Production On Season 2 With Steve Carell Returning To Apple Series”. Deadline (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc 5 tháng Mười năm 2020. Truy cập 3 Tháng mười một năm 2020.
  64. ^ Andreeva, Nellie (16 tháng 1 năm 2019). 'Space Force' Workplace Comedy Series From 'The Office's Steve Carell & Greg Daniels Ordered By Netflix”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc 21 Tháng mười một năm 2019. Truy cập 16 Tháng Một năm 2019.
  65. ^ 'Space Force' Renewed for Season 2 at Netflix (Exclusive) | Hollywood Reporter”. www.hollywoodreporter.com. 13 tháng 11 năm 2020. Lưu trữ bản gốc 14 Tháng mười một năm 2020. Truy cập 14 Tháng mười một năm 2020.
  66. ^ Wiseman, Andreas (19 tháng 3 năm 2019). “Chris Cooper Joins Steve Carell & Rose Byrne in Jon Stewart's Campaign Trail Comedy 'Irresistible' For Focus & Plan B”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc 20 Tháng Ba năm 2019. Truy cập 25 tháng Mười năm 2019.
  67. ^ Interview: Steve Carell (January 11, 2006). The Tonight Show with Jay Leno, NBC.
  68. ^ “Steve Carell – Bio”. Biography.com. Lưu trữ bản gốc 26 Tháng sáu năm 2015. Truy cập 26 Tháng sáu năm 2015.
  69. ^ Burr, Ty (24 tháng 7 năm 2011). “Kickin' back with Steve Carell”. Boston.com. Lưu trữ bản gốc 29 Tháng mười một năm 2014. Truy cập 17 Tháng mười một năm 2014.
  70. ^ “Steve Carell Buys Massachusetts General Store”. HuffPost. 15 tháng 2 năm 2009. Bản gốc lưu trữ 29 Tháng mười một năm 2014. Truy cập 17 Tháng mười một năm 2014.
  71. ^ “Steve Carell”. Hollywood Walk of Fame. Hollywood Chamber of Commerce. Bản gốc lưu trữ 18 Tháng Một năm 2017. Truy cập 11 Tháng hai năm 2018.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]