Post-hardcore
Post-hardcore | |
---|---|
Nguồn gốc từ loại nhạc | Hardcore punk, post-punk, noise rock |
Nguồn gốc văn hóa | Thập niên 1980 tại Hoa Kỳ |
Nhạc cụ điển hình | Dàn trống, guitar bass, guitar điện, giọng hát |
Tiểu thể loại | |
Thể loại pha trộn | |
Sân khấu vùng | |
| |
Sân khấu địa phương | |
| |
Chủ đề liên quan | |
Post-hardcore là một thể loại nhạc xuất phát từ hardcore punk - một nhánh của làn sóng punk rock rộng hơn. Như post-punk, post-hardcore là một thuật ngữ để chỉ một loạt các loại ban nhạc. Có thể post-hardcore đã nổi lên từ giới hardcore punk, và lấy cảm hứng từ đó.
Thể loại này được hình thành vào giữa và cuối thập niên 1980 với những nhạc phẩm từ các thành phố có giới hardcore punk lớn mạnh, đặc biệt là tại Washington, D.C. có Fugazi[2] cũng như các nhóm có âm nhạc hơi khác như Big Black và Jawbox gần hơn với gốc noise rock.[2]
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Khởi đầu
[sửa | sửa mã nguồn]Những nhóm nhạc như Saccharine Trust,[3] Naked Raygun,[4][5][6] và The Effigies,[6] đã báo hiện trước cho sự nổi lên của post-hardcore. Naked Raygun của Chicago, thành lập năm 1981, kết hợp những ảnh hưởng post-punk từ Wire và Gang of Four với hardcore,[7] Steven Blush còn ghi nhận phần "lời mang màu sắc gián tiếp và giai điệu đích thực của post-punk".[8] Tương tự, The Effigies cũng xuất thân từ giới nhạc Chicago, ra mắt những đĩa ảnh ảnh hưởng bởi hardcore của Minor Threat và post-punk Anh của The Stranglers, Killing Joke, và The Ruts.[6]
Nửa đầu thập niên 1980, sự thử nghiệm trên cơ sở hardcore nhanh chóng lan rộng giữa những nghệ sĩ trong giới hardcore hoặc gắn kết chắt chẽ với nó.[2] Nhiều nhóm lấy cảm hứng từ noise rock (như Sonic Youth).[9] Một số ban nhạc ký hợp đồng với Homestead Records, gồm Squirrel Bait,[10] Bastro, Bitch Magnet,[11] và Big Black của Steve Albini (cũng như Rapeman[5] và Shellac[5][12]) có được danh tiếng nhất định trong giới post-hardcore.[6][9] Big Black, với sự góp mặt của tay guitar Santiago Durango của Naked Raygun,[13] được biết đến với tinh thần DIY[9] qua những việc như tự trả tiền cho việc thu âm, điều kiển việc quản lý và phân phối đĩa nhạc, và tiếp tục "độc lập một cách kiên định giữa thời điểm nhiều ban nhạc độc lập hăm hở tìm đến những hãng đĩa lớn".[13] Âm nhạc của Big Black, đáng chú ý với sự hiện diện của trống máy, cũng đã có ít nhiều ảnh hưởng lên industrial rock,[13] Steven Blush mô tả ban nhạc là "lời đáp trả giận dữ từ nước Mỹ tới chất post-punk nước Anh cứng rắn của Gang of Four".[8] Sau khi phát hành đĩa đơn "Il Duce", Big Black chuyển từ Homestead sang Touch and Go Records.[13]
Ngoài nước Mỹ, ban nhạc người Canada Nomeansno, thành lập từ năm 1979, cũng đã giúp định hình phong cách âm nhạc này.[14] Một nhà phê bình ghi nhận rằng album Wrong (1989) là "một trong những tác phẩm mãnh liệt và mạnh mẽ nhất trong post-hardcore từng được tạo ra".[15]
Giới nhạc Washington D.C.
[sửa | sửa mã nguồn]Phát triển
[sửa | sửa mã nguồn]Giới nhạc San Diego
[sửa | sửa mã nguồn]Thập niên 2000
[sửa | sửa mã nguồn]Thập niên 2010
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Jason Heller, "Feast of Reason". Denver Westword, ngày 20 tháng 6 năm 2002. [1] Lưu trữ 2012-03-31 tại Wayback Machine Access date: ngày 15 tháng 6 năm 2008
- ^ a b c “Explore: Post-Hardcore”. Allmusic. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ Robbins, Ira; Sprague, David. “Saccharine Trust”. TrousserPress.com. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
Too early to be post-hardcore but too uncommon for any simple classification, this Southern California quartet doesn't try to create a blizzard of noise — they go at it more artfully, but with equally ear-wrenching results. [...]
- ^ “Naked Raygun”. Allmusic. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ a b c “Explore: Post-Hardcore (Top Artists)”. Allmusic. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ a b c d Huey, Steve. “Effigies - Biography”. Allmusic. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2011.
- ^ Prato, Greg. “Naked Raygun - Biography”. Allmusic. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ a b Blush, Steven. American Hardcore: A Tribal History. Feral House: 2001. p. 222.
- ^ a b c Terich, Jeff (ngày 24 tháng 4 năm 2007). “The 90-Minute Guide - Post-Hardcore”. Treblezine. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2011.
- ^ Huey, Steve. “Squirrel Bait - Biography”. Allmusic. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011.
- ^ Huey, Steve. “Bitch Magnet - Biography”. Allmusic. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011.
- ^ Marticorena, Jorge (ngày 16 tháng 10 năm 2008). “Shellac: No Free Lunch, Still”. The Skinny. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2011.
- ^ a b c d Deming, Mark. “Big Black - Biography”. Allmusic. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011.
- ^ Gold, Jonathan (1996). “Spins: Platter Du Jour - 7 - NOFX - Heavy Petting Zoo”. Spin. Camouflage Associates. 12 (1): 113. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2011.
- ^ Mosurock, Doug (ngày 3 tháng 8 năm 2006). “Nomeansno - All Roads Lead to Ausfahrt”. Dusted Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2011.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Andersen, Mark and Mark Jenkins (2003). Dance of Days: Two Decades of Punk in the Nation's Capital. Akashic Books. ISBN 1-888451-44-0
- Azzerad, Michael (2002). Our Band Could Be Your Life: Scenes from the American Indie Underground 1981-1991. Back Bay Books. ISBN 0-316-78753-1
- Grubbs, Eric (2008). POST: A Look at the Influence of Post-Hardcore-1985-2007. Bloomington, IN: iUniverse, Inc. ISBN 0-595-51835-4. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
- Reynolds, Simon. "The Blasting Concept: Progressive Punk from SST Records to Mission of Burma. Rip It Up and Start Again: Post-punk 1978-84. London: Faber and Faber, Ltd., 2005.