[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Murayama Tomiichi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Murayama Tomiichi
村山 富市
Chân dung do Văn phòng Quan hệ Công chúng Nội các công bố (1994)
Thủ tướng thứ 81 của Nhật Bản
Nhiệm kỳ
30 tháng 6 năm 1994 – 11 tháng 1 năm 1996
1 năm, 195 ngày
Thiên hoàngAkihito
Tiền nhiệmHata Tsutomu
Kế nhiệmHashimoto Ryūtarō
Chủ tịch Đảng Dân chủ Xã hội
Nhiệm kỳ
25 tháng 9 năm 1993 – 28 tháng 9 năm 1996
3 năm, 3 ngày
Tiền nhiệmYamahana Sadao
Kế nhiệmDoi Takako
Thành viên Chúng Nghị viện
Nhiệm kỳ
10 tháng 12 năm 1972 - 19 tháng 5 năm 1980 – 19 tháng 12 năm 1983 - 25 tháng 6 năm 2000
Khu vực bầu cửKhu vực bầu cử thứ 1, tỉnh Ōita
Số lần đắc cử8
Thành viên Hội đồng tỉnh Ōita
Nhiệm kỳ
1963 – 1972
Khu vực bầu cửThành phố Ōita
Số lần đắc cử3
Thành viên Hội đồng thành phố Ōita
Nhiệm kỳ
1955 – 1963
Số lần đắc cử2
Thông tin cá nhân
Sinh3 tháng 3 năm 1924
(100 tuổi)
Ōita, Ōita, Đế quốc Nhật Bản
Đảng chính trịĐảng Dân chủ Xã hội (1996–nay)
Đảng Xã hội (đến năm 1996)
Phối ngẫu
Murayama Yoshie (cưới 1953)
[1]
Alma materĐại học Meiji
Chữ ký
Binh nghiệp
Thuộc Đế quốc Nhật Bản
Quân chủng Lục quân Đế quốc Nhật Bản
Năm tại ngũ1944–1945
Cấp bậcOfficer Candidate
Tham chiếnThế chiến thứ hai

Murayama Tomiichi (村山 (むらやま) 富市 (とみいち) (Thôn Sơn Phú Thị)? sinh ngày 3 tháng 3 năm 1924) là một chính trị gia người Nhật Bản, từng là Thủ tướng Nhật Bản nhiệm kỳ thứ 81 (từ 1994 đến 1996). Trước đó, ông từng là ủy viên hội đồng thành phố Ōita (tỉnh Ōita) trong 2 nhiệm kỳ, ủy viên hội đồng tỉnh Ōita trong 3 nhiệm kỳ, hạ nghị sĩ 8 nhiệm kỳ, chủ nhiệm ủy ban vật giá của Quốc hội Nhật Bản, chủ tịch đầu tiên của Đảng Dân chủ Xã hội (Nhật Bản). Hiện nay, ông là Chủ tịch Danh dự của Đảng này và là cố vấn của Đại học Meiji.

Murayama Tommichi nổi tiếng vì khi làm Thủ tướng Nhật Bản đã công khai xin lỗi về những tội ác của Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

Tuổi trẻ và giáo dục

[sửa | sửa mã nguồn]
Murayama tuổi thiếu niên khi đang làm việc tại một công ty in ấn.

Murayama sinh ra ở tỉnh Ōita vào ngày 3 tháng 3 năm 1924; cha anh ấy là một ngư dân. [2][3] Ông là con trai thứ sáu trong số mười một người con. Cha ông qua đời khi anh mười bốn tuổi, buộc ông phải đi giao báo và làm những công việc nhỏ để kiếm sống.[4] Sau khi tốt nghiệp trường trung học thành phố Oita năm 1938, ông chuyển đến Tokyo và bắt đầu làm việc tại một nhà máy in vào ban ngày và học tại Trường Thương mại Thành phố Tokyo vào ban đêm.

Ông vào Đại học Minh Trị năm 1943 với tư cách là sinh viên triết học, nhưng được điều động vào năm 1944 và được phân công làm việc tại xưởng đóng tàu Ishikawajima. Cuối năm đó, ông được biên chế vào Quân đội Hoàng gia và được bổ nhiệm vào Binh đoàn 72 thuộc Lữ đoàn 23 thuộc Sư đoàn 23 với tư cách là binh nhì. Murayama xuất ngũ sau khi Nhật Bản đầu hàng với cấp bậc ứng cử viên sĩ quan, và kết thúc chiến tranh với tư cách là một thiếu sinh quân với cấp bậc trung sĩ. Sau cái chết của Nakasone Yasuhiro vào năm 2019 và Giorgio Napolitano vào năm 2023, Murayama là cựu thủ tướng duy nhất còn sống có nghĩa vụ quân sự liên quan đến chiến tranh.[cần dẫn nguồn] Ông tốt nghiệp Đại học Meiji năm 1946, và năm 1948, ông trở thành tổng thư ký Đoàn Thanh niên Làng chài tỉnh Oita. Sau khi Liên minh Thanh niên Làng Chài giải tán sau khi đạt được những thành công như thành lập hợp tác xã thủy sản, sau đó ông làm thư ký Liên đoàn Lao động Nhân viên Tỉnh Oita.[5]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ http://www.nndb.com/people/639/000365541/
  2. ^ Profile of Tomiichi Murayama
  3. ^ “Japan gets first Socialist PM in 46 years”. The Independent. 30 tháng 6 năm 1994. Bản gốc lưu trữ 5 tháng 11 năm 2012. Truy cập 10 tháng 12 năm 2010.
  4. ^ 本田雅俊 (29 tháng 7 năm 2008). 総理の辞め方. PHP研究所. tr. 222–231. ISBN 978-4-569-70085-4.
  5. ^ 村山富市「私の政治人生」村山富市・佐高信『「村山談話」とは何か』角川書店2009年、113頁。