[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Mặc gia

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Mặc gia là một trường phái triết học trong lịch sử Trung Quốc vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, là một trong những trường phái của Bách gia chư tử và Cửu lưu thập gia. Đại diện của Pháp giaHàn Phi Tử đã gọi Mặc gia và Nho gia là "Thế chi hiển học", trong khi đại diện của Nho gia là Mạnh Tử cũng từng nói: "Lời lẽ trong thiên hạ, không quy về Dương (Dương Chu, đại diện của Đạo gia) thì quy về Mặc (Mặc Tử)", điều này chứng tỏ tư tưởng của Mặc gia từng có một thời kỳ huy hoàng ở Trung Quốc. Vào cuối thời Chiến Quốc, ảnh hưởng của Mặc học từng sánh ngang với Khổng học.

Đến đầu thời Hán, do tính chất chính trị đặc biệt của tư tưởng Mặc gia, cùng với chính sách "Trục xuất bách gia, độc tôn Nho thuật" của Hán Vũ Đế thời Tây Hán, Mặc gia dần dần mất đi cơ sở tồn tại thực tế và tư tưởng Mặc gia ở Trung Quốc dần dần biến mất; cho đến cuối thời Thanh đầu thời Dân Quốc, các học giả mới tái khám phá ra Mặc gia, và trong những năm gần đây, nhờ nỗ lực của một số nhà Mặc học mới, một số quan điểm trong học thuyết Mặc gia đã bắt đầu thu hút sự chú ý của mọi người.

Logic của Mặc gia là hệ thống logic học đầu tiên của Trung Quốc cổ đại và là một trong ba hệ thống logic cổ điển trên thế giới, chủ yếu được đại diện bởi lý thuyết Tam vật, ba vật đó là Cố, Lý và Loại. Tác phẩm chính về logic của Mặc gia là "Mặc Biện".

Khởi nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Hán Thư - Nghệ Văn Chí cho rằng Mặc gia bắt nguồn từ các thầy cúng, "Dòng phái Mặc gia có lẽ xuất phát từ người trông coi các ngôi đền. Nhà tranh lợp lá cỏ, do đó quý trọng sự tiết kiệm; nuôi dưỡng Tam lão, Ngũ canh, do đó đề cao tình yêu thương; tuyển chọn người tài, bắn cung đại lễ, do đó tôn vinh người hiền; tôn thờ tổ tiên, do đó kính trọng linh hồn; theo mùa mà hành động, do đó phản đối số phận; lấy hiếu thảo mà đối đãi thiên hạ, do đó ủng hộ tư tưởng đại đồng." Trong đó, "người trông coi các ngôi đền" ám chỉ thầy cúng.

Người sáng lập Mặc gia là Mặc Địch, hay còn gọi là Mặc Tử. Trong Nguyên Hòa Tính Toản, cho rằng tổ tiên của Mặc Tử là người nước Cô Trúc, còn Đổng Thư Nghiệp cho rằng Mặc Tử là hậu duệ của công tử Mục Di, một quý tộc nước Tống. Hoài Nam Tử ghi chép rằng Mặc Tử thời trẻ từng học theo Nho gia. Mặc Tử từng đảm nhiệm chức Đại phu nước Tống, và cũng đã sống lâu dài ở nước Sở và nước Lỗ. Sau này, ông phản cảm với những nghi thức phức tạp, hệ thống đẳng cấp nghiêm ngặt, chế độ tông pháp và các nghi lễ tang lễ xa hoa của Nho gia, nên đã rời bỏ Nho học. Mặc Địch chống lại Đạo Chu và áp dụng chính sách của nhà Hạ, Thương, nhấn mạnh cần học tập tinh thần cần cù, giản dị của Đại Vũ, khôi phục lại truyền thống của người Ân, bác bỏ tư tưởng "Nếu vua áp dụng (Nho), sẽ được an nhàn, giàu có và vinh hiển" của Nho gia, và sáng lập Mặc gia. Mặc Tử đã thu nạp rất nhiều học trò, số lượng đệ tử lên đến hàng trăm người.

Phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]

Nho gia, Mặc gia đều là học thuyết nổi tiếng thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, lúc ấy có cách nói "Không vào với Nho, tức nhập với Mặc". Thời kỳ này, Nho, Mặc hai nhà địa vị ngang nhau. Cuối thời chiến quốc, Mặc gia lại đã chia làm ba học phái: Tần Mặc, Sở Mặc và Tề Mặc. Lúc này sức ảnh hưởng của Mặc học vượt qua Khổng học.

Tư tưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc Gia tư tưởng chủ trương chủ yếu gồm: Giữa người với người bình đẳng, yêu quý lẫn nhau (Kiêm Ái), phản đối các cuộc chiến tranh với mục đích xâm lược (Phi Công), tôn sùng tiết kiệm, phản đối phô trương lãng phí (Tiết Dụng), coi trọng kế thừa các di sản văn hóa do người trước để lại (Minh Quỷ), tìm hiểu nắm giữ các quy luật tự nhiên (Thiên Chí).[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Mặc Gia”.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]