Cumania
Cuman–Kipchak Confederation
|
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||
Thế kỷ 10–1241 | |||||||||||
Cumania (Desht-i Qipchaq) c. 1200 | |||||||||||
Bản mẫu:Central Asia 1000 CE Người Cumans trong mối quan hệ với các chính thể Trung Ák. 1000 | |||||||||||
Vị thế | Hãn quốc | ||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | tiếng Kipchak (bao gồm tiếng Cuman) | ||||||||||
Tôn giáo chính | engri giáo, Kitô giáo, Hồi giáo | ||||||||||
Tên dân cư | người Cuman, người Kipchak | ||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
• Thành lập | Thế kỷ 10 | ||||||||||
• Giải thể | 1241 | ||||||||||
|
Cumania là một từ đồng nghĩa và ngoại danh trong tiếng La Tinh dùng để chỉ Liên minh Cuman–Kipchak, là một bang liên bộ lạc ở phía Tây của Thảo nguyên Á-Âu, giữa thế kỷ X và XIII. Liên minh này bị thống trị bởi hai bộ lạc du mục gốc Turk: người Cuman (còn được gọi là người Polovtsian hoặc Folban) và người Kipchak. Cumania được biết đến trong các nguồn Hồi giáo với cái tên Desht-i Qipchaq, có nghĩa là "Thảo nguyên của Kipchak"; hoặc "đất lạ che chở cho người Kipchak", trong tiếng Ba Tư[1] và al-Qumāniyīn trong tiếng Ả Rập.[2][3] Các nguồn tài liệu của Nga gọi Cumania là "Thảo nguyên Polovtsian" (Polovetskaia Step), hay "Đồng bằng Polovtsian" (Pole Polovetskoe).[4]
Một thực thể khác, có tổ chức hơn mà sau này được gọi là Hãn quốc Kim Trướng cũng được biên niên sử người Armenia Hethum (Hayton) xứ Korykos gọi là "Comania".[5]:38 "Cumania" cũng là nguồn gốc của các tên hoặc tên thay thế, đối với một số khu vực nhỏ hơn - một số trong số đó không có mối liên hệ về mặt địa lý với khu vực liên minh - nơi người Cuman và/hoặc người Kipchak định cư, chẳng hạn như khu vực lịch sử Kunság ở Hungary và Giáo phận Công giáo La Mã Cumania cũ (ở Romania và Hungary). Hethum xứ Korykos mô tả Cumania là "hoàn toàn bằng phẳng và không có cây cối".[5]:38 Ibn Battuta nói về Cumania, "Vùng hoang dã này xanh tươi và đầy cỏ, không có cây cối, cũng không có đồi núi, cao hay thấp ... không có phương tiện du hành trong sa mạc này ngoại trừ đi bằng xe ngựa." Người cùng thời với Battuta là Hamdallah Mustawfi, đã trình bày chi tiết như sau:
"Đây là Clime thứ sáu, đồng bằng của nó có đồng cỏ tuyệt vời ... nhưng ở đây có ít nhà cửa, thị trấn hoặc làng mạc. Hầu hết cư dân là những người du mục ở vùng đồng bằng ... Hầu hết đất đai ở đây là đầm lầy ... tuy nhiên, đồng cỏ rất tuyệt vời, ngựa và gia súc rất nhiều, và dân số phần lớn sống dựa vào sản phẩm của chúng. Khí hậu lạnh và nước của họ đến từ các suối và giếng."[5]:40
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Adjiev M. Eskenderovich, The Kipchaks, An Ancient History of the Turkic People and the Great Steppe, Moscow 2002, p.30
- ^ Al-Idrisi (1989). Kitab nuzhat al-mushtaq fi'khtiraq al-'afaq. Beirut. tr. 428–429.
- ^ Vásáry. Cumans. tr. 5.
- ^ Drobny, Jaroslav (2012), Cumans and Kipchaks: Between Ethnonym and Toponym (PDF), tr. 205–217
- ^ a b c Spinei, Victor (2009). The Romanians and the Turkic Nomads North of the Danube Delta from the Tenth to the Mid-thirteenth Century. Leiden; Boston: Brill Publishers. ISBN 9789004175365. OCLC 1015991131.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- Istvan Vasary: "Cumans and Tatars", Cambridge University Press, 2005;
- Binder Pál: "Antecedente şi consecinte sud-transilvanene ale formarii voievodatului Munteniei (sec. XIII-XIV.)" II.; Századok 1995, Budapest;
- Norman Angell: "Peace Theories and the Balkan War"; 1912.
Đọc thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Golden, Peter B. (2009). “QEPČĀQ”. Encyclopaedia Iranica.