[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

City of Evil

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
City of Evil
Album phòng thu của Avenged Sevenfold
Phát hành6 tháng 6 năm 2005 (2005-06-06)
Thu âm1 tháng 1 – 18 tháng 4 năm 2005
Phòng thu
  • The Hobby Shop (Los Angeles)
  • Ocean Way (Hollywood)
Thể loại
Thời lượng72:43
Hãng đĩa
Sản xuất
Thứ tự album của Avenged Sevenfold
Waking the Fallen
(2003)
City of Evil
(2005)
Avenged Sevenfold
(2007)
Đĩa đơn từ City of Evil
  1. "Burn It Down"
    Phát hành: 5 tháng 6 năm 2005
  2. "Bat Country"
    Phát hành: 9 tháng 8 năm 2005
  3. "Beast and the Harlot"
    Phát hành: 28 tháng 2 năm 2006
  4. "Seize the Day"
    Phát hành: 11 tháng 7 năm 2006

City of Evil là album phòng thu thứ ba của ban nhạc heavy metal người Mỹ Avenged Sevenfold, được phát hành vào ngày 6 tháng 6 năm 2005 thông qua các hãng đĩa Warner Bros.Hopeless Records. Với Andrew Murdock là người đồng sản xuất, City of Evil sở hữu âm thanh thiên về heavy metal truyền thống và hard rock hơn hai album trước của Avenged Sevenfold - hai album ấy chủ yếu thể hiện âm thanh của metalcore. Tựa album được lấy từ một câu trong bài hát "Beast and the Harlot". Album gây chú ý bởi thiếu giọng screaming. M. Shadows đã làm việc cùng huấn luyện viên Ron Anderson (từng dạy các khách hàng gồm Axl RoseChris Cornell) trong hàng tháng trời trước ngày ra mắt album để đạt được âm thanh "vừa gai góc vừa có âm điệu".

Album sở hữu một số bài hát thuộc hàng nổi tiếng và tên tuổi nhất của Avenged Sevenfold, gồm cả "Bat Country" - có thể xem là bài thành công nhất của họ tính đến nay và là một trong hai đĩa đơn lấy được chứng nhận vàng của RIAA. City of Evil cũng cực kỳ thành công sau ngày phát hành, ra mắt ở vị trí số 30 trên bảng xếp hạng Billboard 200 và giành được chứng nhận bạch kim của RIAA ở Hoa Kỳ và chứng nhận vàng ở cả Canada và Liên hiệp Anh. Nhạc phẩm tiếp tục tiêu thụ hơn 1.500.000 bản ở Hoa Kỳ và 2.500.000 doanh số toàn cầu, trở thành album đắt khách nhất trong các đĩa nhạc của Avenged Sevenfold tính đến năm 2020. "Burn It Down", "Bat Country", "Beast and the Harlot" và "Seize the Day" đều được phát hành cùng video âm nhạc (MV), lần lượt do Marc Klasfeld, Tony Petrossian, và Wayne Isham làm đạo diễn. "Blinded in Chains" được đưa vào trò chơi video Need for Speed: Most Wanted, và là bài quảng bá cho bộ hoạt hình của Canada-Úc mang tên Chiến binh Bakugan trên TV3.

Album xếp thứ 63 trong danh sách "100 album chơi bằng guitar xuất sắc nhất mọi thời đại" của Guitar World. City of Evil cũng xuất hiện trong "666 album bạn phải nghe trước khi chết" và "50 album bạn cần nghe trước khi chết" của Kerrang!. Album còn được liệt thứ 35 ở danh sách "50 album nhạc metal xuất sắc nhất từ trước đến nay" của Kerrang vào năm 2016. Rolling Stone liệt album ở hạng 100 trong danh sách "100 album nhạc metal hay nhất mọi thời đại".

Hoàn cảnh ra đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước đó, Avenged Sevenfold từng sáng tác và phát hành hai album Sounding the Seventh Trumpet (2001) và Waking the Fallen (2003) lần lượt dưới quyền các hãng thu âm Goodlife RecordsHopeless Records.[1] Dẫu chưa có album nào gây tiếng vang lớn, song album thứ hai đã lấy được chứng nhận bạch kim của RIAA tính đến 2021. Waking the Fallen đã giúp ban nhạc thu hút một số hãng đĩa lớn, và cuối cùng họ ký được với Warner Bros. Records sau khi cân nhắc một số lựa chọn khác.

Sáng tác và thu âm

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi bắt đầu sáng tác album, Avenged Sevenfold thay đổi phong cách dựa trên những nghệ sĩ ảnh hưởng đến họ. Album đã gạt bỏ hoàn toàn âm thanh metalcore.[1] "Khi chúng tôi bắt đầu làm đĩa nhạc này, chúng tôi nói: 'Các cậu biết gì không? Chẳng ban nhạc ưa thích nào của chúng ta là cực kỳ extreme cả, họ cứ viết ra những bài hát vừa có giai điệu hay vừa có chất heavy [metal] thôi," ca sĩ M. Shadows chia sẻ trong một buổi phỏng vấn.[1] Báo giới âm nhạc miêu tả âm nhạc của City of Evilheavy metal,[2] progressive metal,[3][4] hard rock,[5] thrash metal[6]power metal.[7] Album chịu một phần ảnh hưởng từ các ban nhạc power metal châu Âu như Blind Guardian, Sonata ArcticaHelloween, cũng như Children of Bodom.[8] Công đoạn thu âm album được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2005.[9][10]

Shadows đã tìm đến Ron Anderson - huấn luyện viên thanh nhạc từng làm việc với Axl RoseChris Cornell.[1][11] Đặc biệt Shadows muốn có thêm tông giọng khàn, gai góc hơn và làm việc với Anderson trong nhiều tháng trước ngày City of Evil được thu âm.[11] Sự thay đổi này góp phần làm cho từng thành viên trong ban nhạc đều góp giọng mới trong các tiết mục trực tiếp, và thông lệ này vẫn có ở mọi đĩa nhạc mà ban nhạc phát hành sau năm 2005.

"Ron dạy tôi cách mài dũa giọng hát để nó vừa gai góc vừa có âm điệu. Ông ấy đem tất cả tài liệu đặt lên bàn rồi đem kỹ thuật ấy áp dụng vào giọng của tôi. Tính đến giờ, tôi đã làm việc với ông khoảng một năm rữa, song tôi vẫn làm việc chung với ông trong chín tháng trước khi đĩa nhạc ra đời," Shadows chia sẻ, "Tôi bảo ông tôi muốn giọng của mình nghe khác những người khác nữa, nhưng tôi lại muốn những đặc tính ấy ở giọng của mình...Đây là một trong những thứ mà chúng tôi muốn làm đến nơi đến chốn."[11] Nhằm tăng cường thể lực và sức mạnh trên bàn đạp phơ (pedal), The Rev phải ngồi tập luyện hàng giờ đồng hồ cho đến khi anh có thể đạt tốc độ đánh trống 210 nhip/phút.[12]

Phát hành và đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

"Burn It Down" là bài đầu tiên được sáng tác cho City of Evil.[13] Ca khúc được phát hành làm đĩa đơn chủ đạo của album, song bị người hâm mộ phản hồi nghèo nàn.[8] "Bat Country" là một trong đĩa đơn đột phá của năm, giành hạng hai trên Hot Mainstream Rock Tracks của Billboard , hạng 6 trên Modern Rock Tracks của Billboard, và hạng nhất trong Total Request Live của MTV.[14] "Trashed and Scattered" được phát hành sau "Burn It Down", song cũng nhận phải phản hồi không tốt.[15] "Betrayed" là bài tri ân tới Dimebag Darrell, cố nghệ sĩ guitar của Pantera.[1][16]

City of Evil sở hữu bốn video âm nhạc (MV), mỗi MV cho từng đĩa đơn. Ngày 2 tháng 6 năm 2005, ban nhạc phát hành video quảng bá cho "Burn It Down"[17] - được xử lý giống với cách của "Unholy Confessions" từ Waking the Fallen (thước phim ghi trực tiếp kèm lồng nhạc). MV do Nick Wickham làm đạo diễn. Ngày 28 tháng 7 năm 2005, MV quảng bá đầu tiên cho một bài trong album ("Bat Country") được phát hành. MV do Marc Klasfeld làm đạo diễn.[18] Ngày 6 tháng 2 năm 2006, MV của "Beast and the Harlot" được phát hành,[19] chỉ vài tuần sau khi MV bài bị rò rỉ trên YouTube. MV do Tony Petrossian làm đạo diễn.[20] Ngày 30 tháng 6 năm 2006, MV của "Seize the Day" được phát hành trên MySpace và YouTube của Avenged Sevenfold.[21] MV do Wayne Isham làm đạo diễn.[22]

Đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
Allmusic[23]
Blender
IGN7,9/10[16]
Metal Hammer
Punknews.org[24]
Rolling Stone[25]
Sputnikmusic[26]

Album ra mắt ở vị trí số 30 trên Billboard 200 với lượng tiêu thụ hơn 30.000 bản.[27][28] Rolling Stone khen ngợi phần soạn guitar, chấm album ba trên năm sao. Johnny Loftus của AllMusic chấm album ba sao rưỡi/năm sao và bình luận "...Avenged Sevenfold có được những bài nhạc hay, và nghe như họ đang vui thú hơn cả cách tiếp cận rải rác ở mấy đĩa nhạc đầu tiên". Ấn bản Anh của tạp chí Metal Hammer chấm album điểm 8/10, Katie Parsons kết luận: "Họ đã làm [album] theo cách của mình, họ đang vui vẻ và ai có thể trách họ kia chứ?".

City of Evil xếp thứ 63 trong danh sách "100 album chơi bằng guitar xuất sắc nhất mọi thời đại" của Guitar World. Nhạc phẩm cũng xuất hiện trong "666 album bạn phải nghe trước khi chết" và "50 album bạn cần nghe trước khi chết" của Kerrang!.[29] Album còn được liệt thứ 35 ở danh sách "50 album nhạc metal xuất sắc nhất từ trước đến nay" của Kerrang vào năm 2016.[30] Rolling Stone liệt album ở hạng 100 trong danh sách "100 album nhạc metal hay nhất mọi thời đại".[31]

Ngoài ra, "Bat Country" là một trong những đĩa đơn nổi bật của năm 2005, từng giành hạng hai trên Billboard Hot Mainstream Rock Tracks, hạng sáu trên Billboard Modern Rock Tracks, và hạng nhất trên Total Request Live của MTV.[14] Bên cạnh đó, ban nhạc đã thắng giải Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất tại giải Video âm nhạc của MTV 2006, đánh bại Rihanna, Panic! at the Disco, James Blunt, Angels & AirwavesChris Brown.[32][33][34]

Danh sách ca khúc

[sửa | sửa mã nguồn]

Toàn bộ các bài hát được ghi công cho Avenged Sevenfold.[35]

STTNhan đềPhổ nhạcThời lượng
1."Beast and the Harlot"The Rev5:42
2."Burn It Down" 5:00
3."Blinded in Chains" 6:34
4."Bat Country" 5:13
5."Trashed and Scattered" 5:53
6."Seize the Day" 5:35
7."Sidewinder" 7:01
8."The Wicked End" 7:10
9."Strength of the World" 9:14
10."Betrayed" 6:47
11."M.I.A." 8:48
Tổng thời lượng:72:42

Trên các phương tiện khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Hàng loạt bài hát trong City of Evil đã xuất hiện trong các trò chơi video, đáng chú ý là các sản phẩm của Electronic ArtsActivision. "Bat Country" có mặt trong Madden 06[36]NHL 06 của EA Sports, cũng như SSX On Tour do hãng thu âm EA Sports BIG của EA Sports phát hành. Ca khúc còn xuất hiện trong Saints Row 2,[37] Guitar Hero: Warriors of Rock, Rocksmith 2014, trong bộ phim điện ảnh Big Momma's House 2 và phim truyền hình Bones. Tuy nhiên, câu hát "too many doses" (quá nhiều liều thuốc phiện) bị thay bằng "too many save me" để tránh nội dung về ma túy trong các trò chơi video, giữ cho xếp hạng tuổi của ESRB ở mức cho phép. "Blinded in Chains" xuất hiện trong Need For Speed: Most Wanted và làm bài nhạc hiệu cho thành viên thứ 14 Vince "Taz" Killic của Blacklist.[38] "Beast and the Harlot" có mặt trong soundtrack của các trò chơi Burnout Revenge,[39] Guitar Hero II,[40] Guitar Hero Smash Hits,[41] Rock Band 3[42]Rocksmith.[43]

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Canada (Music Canada)[49] Vàng 50.000^
Anh Quốc (BPI)[50] Vàng 100.000^
Hoa Kỳ (RIAA)[51] Bạch kim 1.000.000^

^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e Weiderhorn, Joe (9 tháng 6 năm 2005). “Avenged Sevenfold Salute Dimebag, Shun Metalcore On Evil” (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ Enis, Eli (14 tháng 9 năm 2022). “Fan Poll: Top 5 Albums Where Bands Radically Changed Their Sound” (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  3. ^ Kennelty, Greg (3 tháng 2 năm 2023). “M. SHADOWS Explains How AVENGED SEVENFOLD's Waking The Fallen Was Set Apart From Other Metalcore At The Time” (bằng tiếng Anh). Metal Injection. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024. Avenged Sevenfold drastically changed their sound from punk-infused metalcore to more traditional, progressive heavy metal on their 2005 album City Of Evil, most notable forgoing all screamed vocals.
  4. ^ Wiederhorn, Jon (6 tháng 6 năm 2023). “18 Years Ago: Avenged Sevenfold Unleash Their Breakthrough Album 'City of Evil' (bằng tiếng Anh). Loudwire. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2024.
  5. ^ Parillo, Michael (1 tháng 12 năm 2009). “James 'The Rev' Sullivan” (bằng tiếng Anh). Modern Drummer Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  6. ^ Enis, Eli (7 tháng 6 năm 2021). “Avenged Sevenfold Albums Ranked: From Worst to Best” (bằng tiếng Anh). Revolver. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ Paul, Aubin (7 tháng 6 năm 2005). “Avenged Sevenfold City Of Evil (2005)” (bằng tiếng Anh). Punk News. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ a b Epstein, Dan (1 tháng 6 năm 2010). “Avenged Sevenfold Look Back on 'City of Evil': Inspiration, Backlash, Breakthrough” (bằng tiếng Anh). Revolver. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  9. ^ “News - December 22, 2004” (bằng tiếng Anh). Avenged Sevenfold. 30 tháng 12 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  10. ^ “News - April 18, 2005”. Avenged Sevenfold.com (bằng tiếng Anh). 18 tháng 4 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  11. ^ a b c “Avenged Sevenfold Feature Interview”. Blistering (bằng tiếng Anh). 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  12. ^ Dan, Epstein (1 tháng 6 năm 2010). “Avenged Sevenfold Look Back on 'City of Evil': Inspiration, Backlash, Breakthrough” (bằng tiếng Anh). Revolver. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2024.
  13. ^ “Avenged Sevenfold Presents Breakdown: Bat Country – Part 01 of 02”. Youtube. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2022.
  14. ^ a b Moss, Corey. “Avenged Sevenfold: Appetite for Destruction”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  15. ^ “Trax Episode 2: "Trashed and Scattered". AvengedSevenfold.com (bằng tiếng Anh). 22 tháng 4 năm 2022. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  16. ^ a b “Avenged Sevenfold – City of Evil – Music Review at IGN”. Music.ign.com (bằng tiếng Anh). 2 tháng 8 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2024.
  17. ^ “Avenged Sevenfold: Burn It Down: Music Video”. CMT (bằng tiếng Anh). 29 tháng 4 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  18. ^ Rampton, Mike (8 tháng 2 năm 2020). “A deep dive into Avenged Sevenfold's Bat Country video”. Kerrang! (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2024.
  19. ^ “AVENGED SEVENFOLD Likes To Party Hard In 'Bat Country'. Blabbermouth. 7 tháng 2 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2023.
  20. ^ Harris, Chris (7 tháng 10 năm 2005). “Avenged Sevenfold Summon Deranged Fiends, Sexy Beauties For 'Beast' Video”. MTV (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2024.
  21. ^ “FMQB Airplay Archive: Modern Rock” (bằng tiếng Anh). Friday Morning Quarterback Album Report, Incorporated. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  22. ^ “AVENGED SEVENFOLD: 'Seize The Day' Video Posted Online”. Blabbermouth. 30 tháng 6 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2023.
  23. ^ Loftus, Johnny (7 tháng 6 năm 2005). City of Evil – Avenged Sevenfold”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2011.
  24. ^ “Avenged Sevenfold – City of Evil. Punknews.org. 7 tháng 6 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2011.
  25. ^ Eliscu, Jenny (28 tháng 7 năm 2005). City of Evil. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2012.
  26. ^ Freeman, Channing (10 tháng 8 năm 2006). City of Evil – Avenged Sevenfold”. Sputnikmusic. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2012.
  27. ^ “Coldplay Earns First Billboard 200 No. 1”. Billboard (bằng tiếng Anh). 15 tháng 6 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2024.
  28. ^ “Avenged Sevenfold's City of Evil Unleashed June 7” (bằng tiếng Anh). Market Wire. 22 tháng 6 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  29. ^ Emily (4 tháng 2 năm 2015). “50 Albums You Need To Hear Before You Die – Kerrang!” (bằng tiếng Anh). Kerrang. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  30. ^ “Kerrang!'s 50 Greatest Metal Albums Ever”. Avenged Sevenfold. 3 tháng 2 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  31. ^ “The 100 Greatest Metal Albums of All Time”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). 21 tháng 6 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  32. ^ “Avenged Sevenfold” (bằng tiếng Anh). The Vogue. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  33. ^ “Avenged Sevenfold Named 'Best New Artist In A Video' At MTV Video Music Awards”. Blabbermouth.net (bằng tiếng Anh). 1 tháng 9 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2024.
  34. ^ “Winners of the 2006 MTV Video Music Awards” (bằng tiếng Anh). Tampa Bay Times. 9 tháng 1 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2024.
  35. ^ City of Evil liner notes. Warner Bros. Records. 2005. tr. 4, 10, 11.
  36. ^ Montgomery, James (1 tháng 8 năm 2005). “Fall Out Boy, Foo Fighters Lend Songs To 'Madden NFL 06' (bằng tiếng Anh). MTV. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  37. ^ “Saints Row 2 Music” (bằng tiếng Anh). IGN. 6 tháng 10 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  38. ^ “Need for Speed Most Wanted” (bằng tiếng Anh). NFS Soundtrack. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  39. ^ “Burnout Revenge” (bằng tiếng Anh). NFS Soundtrack. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  40. ^ “25 of the Best Guitar Hero Songs of All Time!” (bằng tiếng Anh). String Vibe. 17 tháng 1 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024. Beast and the Harlot – Avenged Sevenfold A crowd favorite among Guitar Hero songs and a relatively easy song if you can get through the fast strokes.
  41. ^ “Avenged Sevenfold”. Guitar Hero Neo Seeker (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  42. ^ Snider, Mike (10 tháng 6 năm 2010). “Rock Band 3: What's New, What's Notable”. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  43. ^ “Rocksmith”. GameSpot (bằng tiếng Anh). 30 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  44. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập September 20, 2020.
  45. ^ "Avenged Sevenfold Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập September 20, 2020.
  46. ^ “シティ・オブ・イーヴル | アヴェンジド・セヴンフォールド” [City Of Evil | Avenged Sevenfold]. Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2021.
  47. ^ "Official Rock & Metal Albums Chart Top 40" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập March 5, 2023.
  48. ^ “Top Billboard 200 Albums – Year-End 2006”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.
  49. ^ “Chứng nhận album Canada – Avenged Sevenfold – City of Evil (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  50. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Avenged Sevenfold – City of Evil” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
  51. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Avenged Sevenfold – City of Evil (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2009.