[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Chaebol

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chaebol
Hangul
Hanja
Romaja quốc ngữJaebeol
McCune–ReischauerChaebŏl
Hán-ViệtTài phiệt
IPA[tɕɛ̝bʌl]

Chaebol (/ˈbɒl, ˈɛbəl/,[1][2] Tiếng Hàn재벌; phát âm tiếng Hàn: [tɕɛ̝.bʌl], Chê-bôl) là tên gọi của các đại tập đoàn gia đình lớn tại Hàn Quốc.[3] Thông thường, chaebol là các tập đoàn đa quốc gia với tập hợp thành viên bao gồm rất nhiều doanh nghiệp quốc tế nằm dưới sự điều khiển của một ông chủ duy nhất nắm quyền hành trên tất cả những cơ sở này.[3][4] Thuật ngữ này lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1984.[3] Hiện nay, ở Hàn Quốc có khoảng vài chục nhóm chaebol như vậy nằm dưới sự điều khiển của những gia tộc kinh doanh lâu đời. Năm 2015, các gia tộc chaebol được cho là đã kiểm soát tới 80% nền kinh tế Hàn Quốc.

Nhờ quyền lực kinh tế, các chaebol cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong các vấn đề chính trị tại Hàn Quốc. Ví dụ như vào năm 1988, chủ tịch của tập đoàn Hyundai lúc bấy giờ là ông Jeong Mong-jun đã trúng cử một ghế trong Quốc hội Hàn Quốc. Một số lãnh đạo chaebol khác cũng trúng cử đại biểu quốc hội thông qua cơ chế đại biểu tỷ lệ. Tuy nhiên, các Chaebol như tập đoàn Hyundai cũng là một trong những thành tố nổi bật nhất trong quá trình hòa giải mối quan hệ giữa hai miền Nam Bắc Triều Tiên kể từ năm 2000 tới nay.[5]

Cấu trúc và đặc điểm

[sửa | sửa mã nguồn]

Các chaebol Hàn Quốc là các tập đoàn rất lớn, nhưng nhiều công ty đã bị chia nhỏ ra thành nhiều doanh nghiệp nhỏ nhưng vẫn duy trì mối quan hệ chặt chẽ và có chung tên thương hiệu. Trong cả hai trường hợp, các chaebol đều chịu sự kiểm soát gần như tuyệt đối của một đại gia tộc nào đó.

Các chaebol Hàn Quốc thường được so sánh với mô hình của các Keiretsu (系列, hệ liệt) tại Nhật Bản - mô hình kế tục trực tiếp của các chaebol Nhật (Zaibatsu) thời trước năm 1945. Tuy nhiên, các chaebol Hàn Quốc có những điểm khác biệt như sau:

  • Chaebol Hàn Quốc chịu sự chi phối của gia tộc khai sinh ra doanh nghiệp đó, trong khi các công ty Nhật nằm dưới sự điều hành của một nhóm người. Cơ cấu quyền lực của chaebol Hàn Quốc mang tính tập trung cao độ, trong khi các tập đoàn Nhật có sự phân quyền nhiều hơn.
  • Chaebol Hàn Quốc tự thành lập các hãng riêng của mình để phục vụ cho việc xuất khẩu, trong khi các tập đoàn Nhật thường thuê mướn các công ty bên ngoài để lo việc này.
  • Chaebol Hàn Quốc không sở hữu toàn bộ các cơ sở tài chính và thường phụ thuộc nhiều hơn vào chính phủ. Chaebol Hàn Quốc không được phép có ngân hàng riêng, một phần nguyên do của điều này là để tăng cường sự kiểm soát nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng. Luật pháp và sự kiểm soát của chính phủ khiến các chaebol Hàn Quốc khó có thể phát triển các mối quan hệ và thương vụ riêng biệt về tài chính, ngân hàng. Trong khi đó các tập đoàn của Nhật Bản từ lâu đã hợp tác chặt chẽ với các ngân hàng có liên quan, điều này khiến họ rất dễ dàng trong việc tiếp cận nguồn vốn, mặc dù không phải các công ty Nhật nào cũng được như thế.

Mô hình chaebol Hàn Quốc chủ yếu dựa trên một hệ thống phân chia quyền sở hữu rất phức tạp và chồng chéo lên nhau. Người đứng đầu các chaebol chỉ nắm quyền kiểm soát ở ba hay bốn công ty chính, các công ty chính này lại điều hành các hãng con trực thuộc vào nó, việc điều hành nhận được sự trợ giúp từ các thành viên trong gia tộc, của nguồn quỹ do cả gia tộc sở hữu, và của các nhân viên quản lý lão thành trong chaebol. Một ví dụ đó là tập đoàn Doosan, chaebol này có hơn 20 công ty con nhưng người đứng đầu chủ yếu điều hành qua 5 công ty chính.[6]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Sự hình thành các Chaebol bắt đầu từ sau thế chiến 2. Sau khi phát xít Nhật đầu hàng quân đội Đồng Minh và quân đội Nhật triệt thoái hoàn toàn khỏi bán đảo Triều Tiên vào năm 1945, một số doanh nhân Hàn Quốc đã tận dụng thời cơ để được quyền sở hữu các tài sản mà các doanh nghiệp Nhật Bản để lại, một vài trong số này sau đó đã phát triển thành các Chaebol. Các Chaebol được hình thành bao gồm nhiều công ty có mối quan hệ liên kết về mặt tài chính, chiến lược kinh doanh và sự điều phối chung trong hoạt động, ví dụ như Samsung, Daewoo hay LG. Nét đặc trưng của các Chaebol là toàn bộ các công ty thành viên thường do một hoặc một số ít các đại gia tộc sáng lập và nắm giữ cổ phần chi phối.

Sau cuộc binh biến vào năm 1961, Tổng thống, nhà độc tài Park Chung-Hee đã quyết định cải tạo tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của đất nước bằng một cuộc đại công nghiệp hóa thần tốc thông qua việc khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp lớn có sẵn - các Chaebol. Chính phủ đưa ra kế hoạch phát triển công nghiệp, Chaebol thực hiện các kế hoạch này. Để các Chaebol yên tâm thực thi nhiệm vụ, chính phủ chủ động cho các Chaebol vay với lãi suất rất thấp thông qua các ngân hàng nhà nước. Các ngân hàng quốc doanh còn được lệnh phải bảo lãnh nợ nước ngoài cho các Chaebol, để họ có thể vừa thoải mái tiếp cận nguồn tín dụng trong nước, vừa "vô tư" đi vay nợ nước ngoài. Tổng thống Park cũng giảm thuế đánh vào sản phẩm của các Chaebol, đặc biệt là các công ty xây dựng, khi chính phủ bắt đầu xây dựng cơ sở hạ tầng như đường cao tốc và cầu ở Hàn Quốc.

Khống chế nền kinh tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Chính nhờ những chính sách ưu đãi này, các Chaebol nhanh chóng phát triển thành các tập đoàn tầm cỡ thế giới. Cuối thập niên 1980, Chaebol đã chế ngự lĩnh vực công nghiệp và đặc biệt nổi tiếng về sản xuất, thương mại và các ngành công nghiệp nặng. Các Chaebol được cho đã giúp nền kinh tế xứ sở Kim Chi thoát được cảnh thâm hụt mậu dịch, trở thành nước có thặng dư mậu dịch lớn kể từ năm 1986. Bước sang thập niên 90 của thế kỷ 20, Hàn Quốc "lột xác" hoàn toàn từ một đất nước nghèo nàn bị chiến tranh tàn phá thành một trong những nước công nghiệp mới lớn nhất trên thế giới, người dân được hưởng chất lượng cuộc sống tương đương với các nước công nghiệp phát triển, tất cả đều được tin là công lao của các "người hùng" Chaebol.

Chỉ tính riêng năm 2003, tổng kim ngạch xuất khẩu của 4 Chaebol Daewoo, Hyundai, LG và SK đã lên đến 111,7 tỷ USD, tương đương 58% tổng giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc, chiếm 1/3 tổng giá trị tư bản của thị trường. Riêng Samsung chiếm tới 20% xuất khẩu của nước này. Ba Chaebol lớn nhất năm 2008 là Samsung, Hyundai và Daewoo được người dân Hàn Quốc gọi với biệt danh là "Tam trụ" - 3 trụ cột chống giữ nền kinh tế nước nhà.

Trong thời kỳ trước khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, khoảng 80% GDP của Hàn Quốc có nguồn gốc từ các Chaebol.

Một thống kê năm 2015 cho thấy chỉ tính riêng 5 Chaebol đứng đầu đã kiểm soát tới 58% GDP của Hàn Quốc. Số lượng các chi nhánh thuộc sở hữu của 30 Chaebol hàng đầu cũng đã tăng lên 1.246 vào năm 2012. Thông qua việc sở hữu chéo giữa các công ty chính và các công ty con của họ, các gia tộc chaebol sáng lập tiếp tục là người chi phối chính của Chaebol.

Mặc dù "độc tài", nhưng các Chaebol cũng chính là nơi sản sinh ra nhiều tỷ phú, triệu phú nhất, góp phần không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc.[7]

Chỉ trích

[sửa | sửa mã nguồn]

Sự tồn tại của các chaebol Hàn Quốc được cho là có các điểm yếu và tiêu cực như sau:

Lạm phát

[sửa | sửa mã nguồn]

Hệ thống chaebol Hàn Quốc hình thành nhờ vào chiến tranh Triều Tiên, khi sự tàn phá của chiến tranh khiến sản xuất công nghiệp chững lại, và nhà nước Hàn Quốc buộc phải in tiền để chi trả chiến phí và đáp ứng các tiêu chuẩn về tiền tệ do Liên Hợp Quốc đặt ra - điều này đã gây ra lạm phát quy mô lớn. Thời gian đó vật giá cứ tăng lên gấp đôi sau mỗi 6 tháng. Điều này buộc chính phủ phải giao quyền phân phối các sản phẩm thiết yếu, hàng tiêu dùng, vốn vay và nhập khẩu nguyên liệu thô cho các gia tộc kinh doanh lớn, dẫn tới sự thăng tiến nhanh chóng của các nhóm kinh doanh này. Những nhóm chaebol đó hưởng lợi từ việc họ khống chế khả năng thâm nhập thị trường của các công ty khác và ngăn chặn những "người ngoài" nhảy vào cạnh tranh với họ.[8] Vì vậy các công ty không thuộc nhóm chaebol được ưu đãi đó đã cáo buộc hệ thống là suy đồi và tham nhũng.[9]

Quyền lực khống chế nền kinh tế và chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Người đứng đầu các chaebol nắm giữ một phần nhỏ cổ phần nhưng lại có rất nhiều quyền lực và có khả năng kiểm soát tất cả hệ thống quản lý. Ví dụ Samsung trên danh nghĩa chỉ sở hữu có 0,5% tài sản của các hãng thuộc quyền kiểm soát của công ty mẹ. Điều này cho thấy mức độ pháp trị và thượng tôn pháp luật ở các chaebol là rất thấp.[4] Chủ các chaebol duy trì quyền lực của mình thông qua việc sở hữu chéo (cross-holding).[10]

Vào thời điểm cực thịnh những năm cuối thập niên 1990, các Chaebol trong cùng một tập đoàn có mức độ sở hữu chéo lên tới 43%. Các khoản vay giữa các thực thể kinh tế khác nhau trong cùng một tập đoàn luôn được thực hiện một cách dễ dàng, tất cả là để bảo vệ quyền sở hữu và kiểm soát của gia đình làm chủ.

Phát triển dưới sự bảo hộ của chính phủ cùng mối quan hệ chặt chẽ với giới chính trị gia, các tập đoàn Chaebol Hàn Quốc không chỉ giàu mà còn có tầm ảnh hưởng chính trị. Các chính trị gia thường dựa vào sự hẫu thuận về chính trị và tài chính của các tập đoàn này trong quá trình vận động bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử tại Quốc hội.

Vụ bê bối khiến Tổng thống Park Geun-hye bị kết tội tham nhũng vào năm 2017 còn động đến vấn đề nhạy cảm ở Hàn Quốc là vai trò của những tập đoàn Chaebol. Phó chủ tịch của Samsung Electronics, ông Lee Jae-yong bị cáo buộc chi hơn 37 triệu USD để đổi lấy sự hậu thuẫn của chính phủ về việc sáp nhập hai công ty con của Samsung, nhằm củng cố quyền lực của mình tại tập đoàn. Nhiều người Hàn Quốc cảm thấy lo lắng và bức xúc về tình trạng các Chaebol làm khuấy đảo chính trường nước này.

Giám đốc điều hành các Chaebol được cho là có thể đứng trên pháp luật dù những bê bối của họ thu hút sự chú ý của dư luận. Các ông trùm chaebol Hàn Quốc chỉ thỉnh thoảng mới bị điều tra và truy tố, thường thì họ có thể hoạt động mà không bị trừng phạt. Ví dụ như chủ tịch Samsung Lee Kun-hee từng bị kết tội tham nhũng hai lần, nhưng đều được chính phủ ân xá do những lo ngại về ảnh hưởng đến nền kinh tế Hàn Quốc trong tương lai. Năm 2008, Lee Kun-hee bị kết tội gian lận trốn thuế, nhưng được Tổng thống lúc đó là Lee Myung-bak ân xá và chỉ bị phạt tiền.

Trách nhiệm giải trình các giao dịch thị trường nội bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà nước Hàn Quốc chủ động khuyến khích sự phát triển và hỗ trợ kinh doanh cho các chaebol, vì vậy nhà nước có khá nhiều quyền hành đối với các chaebol này. Tuy nhiên, việc kiểm soát và yêu cầu giải trình các giao dịch kinh doanh thì chưa thực hiện được, nói cách khác nhà nước không có một hệ thống giám sát độc lập để có thể kiểm tra xem nguồn vốn phân bổ cho các dự án của chúng có đem lại hiệu quả cao hay không.[4][11] Các hoạt động giao dịch của chaebol đều được thực hiện dưới hình thức giao dịch thị trường nội bộ (Internal market transactions), tức là việc mua bán nhập lượng trung gian, việc phân bổ và thu nhận vốn thế chấp và vật thế chấp diễn ra giữa các hãng thành viên của cùng một công ty,[12] điều này gây ra quan ngại về hiệu năng của hoạt động kinh doanh của các chaebol, nhất là trong khâu quản lý và sản xuất. Như vậy, hệ thống và cấu trúc của các chaebol không có được minh bạch cho lắm. Đằng sau hậu trường đã diễn ra các hoạt động huy động vốn cho các chinh nhánh phụ và chuyển khoản, giao dịch trong nội bộ. Việc này khiến các chaebol có thể dễ dàng vay vốn để che giấu thua lỗ và gây ra ảo tưởng về sự thành đạt của hệ thống chaebol.[4]

"Quá lớn để có thể bị sụp đổ"

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính 1997, các ngân hàng tại Hàn Quốc đã lo sợ rằng những chaebol có thể bị phá sản và vì thế họ cho phép các chaebol gia hạn nợ hoặc vay nợ mới để trả nợ cũ. Những ngân hàng ảo tưởng rằng các chaebol "quá lớn để có thể bị sụp đổ" (too big to fall), họ không tin rằng các chaebol có thể bị phá sản và cho rằng khi họ vay càng nhiều thì sự vững bền cũng sẽ cao. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh điều ngược lại đó là hàng loạt các cơ sở kinh doanh đã phá sản trong cuộc khủng hoảng kinh tế, nhiều công ty sụp đổ theo hiệu ứng dây chuyền do mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về nợ thế chấp. Trong thời kỳ kinh tế còn đang hưng khởi, việc mở rộng quy mô công ty giúp cho các khoản nợ có thể được kiểm soát, nhưng khi sự phát triển chững lại, tỷ lệ nợ trên tài sản trở thành một vấn đề đau đầu.[13]

Kế hoạch cải tổ từ phía chính phủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1998, khi Hàn Quốc vừa mới hứng chịu cuộc khủng hoảng tài chính, Kim Dae-jung được bầu làm Tổng thống. Từ lúc đó chính phủ Hàn Quốc đã bắt đầu tiến hành cải cách toàn bộ kinh tế cũng như cải tổ các nhóm chaebol như sau:

  • Các chaebol được yêu cầu chỉ tập trung vào chuyên ngành của mình thay vì cạnh tranh với nhau ở khắp các lĩnh vực. Các chi nhánh làm việc ở những lĩnh vực không liên quan phải tách riêng ra khỏi công ty mẹ;
  • Các chaebol phải giảm bớt tình trạng tập trung quyền lực và tăng cường tuyển dụng các nhà quản lý chuyên nghiệp từ bên ngoài;
  • Tăng cường kiểm soát nguồn tài chính của các chaebol để ngăn ngừa việc họ giấu diếm các khoản nợ hay thua lỗ của các chi nhánh yếu kém;
  • Luật chống độc quyền và thuế tài sản được thi hành khắt khe hơn để làm suy giảm quyền lực của các đại gia tộc trong các chaebol.

Công cuộc cải tổ của Kim và Tổng thống kế tục Roh Moo-hyun tuy có chuyển biến nhưng không đạt được thành công hoàn toàn. Các chaebol vẫn tiếp tục lũng đoạn nền kinh tế của Hàn Quốc, một số công ty như Hyundai và SK thậm chí có dính dáng đến các vụ bê bối liên quan tới hai vị Tổng thống này.[14]

Chủ tịch tập đoàn Samsung Lee Kun-hee mặc dù đã từ chức vào tháng 4 năm 2008 với cáo buộc trốn thuế, lập quỹ đen và vi phạm các quy định về trách nhiệm được ủy thác trong công ty, bị Tòa án Tối cao tuyên phạt án tù giam có thời hạn, tuy nhiên sau đó ông Lee đã quay trở lại sau khi nộp tiền bảo lãnh, còn bản án trước đó thì được giảm xuống thành án tù treo.

Cải cách này vấp phải sự chống trả của một số tổ chức, nổi bật nhất là Liên đoàn Công nghiệp Hàn Quốc, một liên doanh của các nhà chaebol nước này.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “chaebol”. Oxford Dictionaries. Oxford University Press. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2017.
  2. ^ “Chaebol”. Dictionary by Merriam-Webster. Merriam-Webster. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2011.
  3. ^ a b c “chaebol”. Merriam-Webster. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2011.
  4. ^ a b c d Jung, Dong-Hyeon (ngày 1 tháng 8 năm 2004). “Korean Chaebol in Transition”. Sage. 40 (3): 299–303. doi:10.1177/000944550404000306. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2013.[liên kết hỏng]
  5. ^ Hyundai's $500 Million Payments to North Korea: A Bribe or Business Deal? Lưu trữ 2016-10-24 tại Wayback Machine Korea WebWeekly (ngày 9 tháng 2 năm 2003)
  6. ^ Interlocking Ownership in the Korean Chaebol, by Dong-Woon Kim, April 2003, Corporate governance: an International Review
  7. ^ Hà Thu (13 tháng 10 năm 2020). “Thành triệu phú nhờ làm việc cho chaebol Hàn Quốc”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2020.
  8. ^ Beck, Peter M. (tháng 11 năm 1998). “Revitalizing Korea's Chaebol”. JSTOR. 38 (11): 1018–1035. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2013.
  9. ^ Jung, Dong-Hyeon (ngày 1 tháng 8 năm 2004). “Korean Chaebol in Transition”. Sage. 40 (3): 299–303. doi:10.1177/000944550404000306.[liên kết hỏng]
  10. ^ Moskalev, Sviatoslav; Park, Seung Chan (2010). “South Korean Chaebols and Value-Based Management”. Journal of Business Ethics. 92: 49–62. doi:10.1007/s10551-009-0138-5.
  11. ^ Park, Seung-Rok; Yuhn, Ky-hyang (2012). “Has the Korean Model of Chaebol Succeeded?”. Journal of Economic Studies. 39 (2): 260–274. doi:10.1108/01443581211222680. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2013.
  12. ^ Park, Seung-Rok; Yuhn, Ky-hyang. “Has the Korean chaebol model succeeded?”. Journal of Economic Studies. 39 (2). doi:10.1108/01443581211222680.
  13. ^ Yuji Akaba & Budde, Florian and Jungkiu Choi (ngày 1 tháng 12 năm 1998). “Restructuring South Korea's Chaebol”. McKinsey Quarterly (4): 68–79. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2013.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)[liên kết hỏng]
  14. ^ Coverage of Roh Moo-hyun campaign financing scandal: Donald Macintyre (1 tháng 12 năm 2003). “Losing Face”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2014.