Casemiro
Casemiro trong màu áo đội tuyển Brasil vào năm 2018 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Carlos Henrique Casimiro[1] | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Ngày sinh | 23 tháng 2, 1992 [1] | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nơi sinh | São José dos Campos, Brasil | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,85 m (6 ft 1 in)[2] | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền vệ phòng ngự | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thông tin đội | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đội hiện nay | Manchester United | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Số áo | 18 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2002–2010 | São Paulo | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
2010–2013 | São Paulo | 92 | (9) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
2013 | → Real Madrid Castilla (mượn) | 15 | (1) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
2013 | → Real Madrid (mượn) | 1 | (0) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
2013–2022 | Real Madrid | 221 | (24) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
2014–2015 | → Porto (mượn) | 28 | (3) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
2022– | Manchester United | 63 | (6) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
2009 | U-17 Brasil | 7 | (1) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
2011 | U-20 Brasil | 15 | (3) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
2011– | Brasil | 75 | (7) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thành tích huy chương
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 10 tháng 11 năm 2024 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 18 tháng 10 năm 2023 |
Carlos Henrique Casimiro (sinh ngày 23 tháng 2 năm 1992), thường được biết đến với tên gọi Casemiro,[3] là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brazil hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Premier League Manchester United và đội tuyển bóng đá quốc gia Brazil. Nổi tiếng nhờ lối chơi giàu thể lực, khả năng phòng ngự xuất sắc, khả năng tắc bóng và kiểm soát bóng tốt, anh được đánh giá là một trong những tiền vệ xuất sắc nhất thế giới trong thế hệ của mình.[4][5][6]
Bắt đầu sự nghiệp ở São Paulo, nơi đây anh đã ghi 11 bàn thắng trong 112 trận đấu chính thức, anh chuyển đến Real Madrid vào năm 2013, và cũng có một mùa giải cho mượn tại Porto.
Về sự nghiệp quốc tế thì Casemiro góp mặt trong đội hình của Brasil tại bốn kỳ Copa America (vào các năm 2015, 2016, 2019, 2021) và hai kỳ FIFA World Cup (vào các năm 2018 và 2022).
Sự nghiệp câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]São Paulo
[sửa | sửa mã nguồn]2003–2010: Sự nghiệp thanh niên
[sửa | sửa mã nguồn]Sinh ra ở São José dos Campos, São Paulo, Casemiro là sản phẩm của hệ thống đào tạo trẻ São Paulo. Năm 11 tuổi, anh làm đội trưởng của đội bóng này;[7][8] anh được biết đến với cái tên "Carlão" - một hình thức của cái tên đầu tiên trong tiếng Bồ Đào Nha và được tham dự FIFA U-17 World Cup 2009.[9]
2010–2013: Thành công bền vững
[sửa | sửa mã nguồn]Casemiro ra mắt cho Sao Paulo tại Série A vào ngày 25 tháng 7 năm 2010, trong trận thua trên sân khách trước Santos. Anh ghi bàn thắng đầu tiên với tư cách chuyên nghiệp vào ngày 15 tháng 8, giúp đội bóng có trận hòa 2–2 trước Cruzeiro Esporte Clube.[10]
Ngày 7 tháng 4 năm 2012, Casemiro ghi bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 2–0 trước Mogi Mirim Esporte Clube ở Campeonato Paulista sau khi vào sân thay cho Fabrício, người đã bị dính chấn thương, nhưng sau đó bị đuổi khỏi sân.[11] São Paulo đã giành chức vô địch Copa Sudamericana, với cầu thủ này có một lần vào sân thay người trong chiến thắng 5–0 trên sân nhà trước Club Universidad de Chile ở trận tứ kết lượt về vào ngày 7 tháng 11.[12]
2013: Cho mượn tại Real Madrid
[sửa | sửa mã nguồn]– Casemiro giải thích lý do tại sao cầu thủ này rất vui khi được chọn vào Real Madrid Castilla.[13]
Ngày 31 tháng 1 năm 2013, Casemiro được câu lạc bộ Tây Ban Nha Real Madrid cho mượn và giao cho đội dự bị ở Segunda División.[14] Anh có trận ra mắt ở giải đấu vào ngày 16 tháng 2, đá chính trong trận thua 1–3 trước CE Sabadell FC.[15] Ngày 20 tháng 4, Casemiro ra mắt tại La Liga, chơi trọn vẹn 90 phút trong chiến thắng 3–1 trên sân nhà trước Real Betis.[16] Anh đã ghi bàn thắng đầu tiên ở châu Âu vào ngày 2 tháng 6, trong chiến thắng 4–0 của đội dự bị trước AD Alcorcón tại Sân vận động Alfredo Di Stéfano.[17]
Real Madrid
[sửa | sửa mã nguồn]2013–2014: Thành công đầu tiên
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 10 tháng 6, vụ chuyển nhượng của Casemiro được thực hiện vĩnh viễn trong bốn năm.[18][19][20]
2014–2015: Cho mượn tại Porto
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 19 tháng 7 năm 2014, Casemiro được đội bóng Porto ở Bồ Đào Nha cho mượn kéo dài một mùa giải . [21] Anh đã thi đấu tổng cộng 41 trận cho Porto, ghi được 4 bàn thắng,[22] bao gồm một quả đá phạt trực tiếp vào ngày 10 tháng 3 năm 2015, trong chiến thắng 4–0 trên sân nhà trước Basel ở vòng 16 đội UEFA Champions League.[23]
2015–2016: Trở thành lựa chọn hàng đầu
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 5 tháng 6 năm 2015, Casemiro trở lại Real Madrid với điều khoản mua lại[24] và bản hợp đồng của anh được gia hạn thêm 6 năm vào ngày 31 tháng 8.[25] Anh đã có bàn thắng đầu tiên cho Real Madrid vào ngày 13 tháng 3 năm 2016, đánh đầu ghi bàn từ quả đá phạt góc của Jesé ở phút thứ 89 trong chiến thắng 2–1 trước UD Las Palmas.[26] Sau khi chủ yếu là cầu thủ dự bị dưới thời HLV Rafael Benítez, Casemiro trở thành lựa chọn số một dưới thời HLV Zinedine Zidane[27] và đóng góp 11 lần ra sân ở Champions League 2015–16. Trong trận chung kết gặp Atlético Madrid, anh đã thi đấu trọn vẹn 120 phút khi Real Madrid giành danh hiệu lần thứ 11 ở loạt sút luân lưu sau khi hòa 1–1.[28]
2016–2021: Thành công rực rỡ
[sửa | sửa mã nguồn]– Casemiro bình luận về cảm xúc của mình khi khoác áo Real Madrid.[29]
Ở La Liga 2016–17, Casemiro đã có 4 bàn thắng sau 25 trận, giúp Real Madrid giành chức vô địch lần đầu sau 5 năm.[30][31] Sau đó, anh đã ghi một bàn thắng từ khoảng cách xa ở trận chung kết Champions League, giúp đội bóng anh giành chiến thắng 4–1 trước Juventus.[32] Anh lại ghi bàn vào ngày 8 tháng 8, đưa đội bóng vượt lên dẫn trước trong chiến thắng 2–1 trước Manchester United ở Siêu cúp châu Âu 2017.[33]
Tại UEFA Champions League 2017–18, Casemiro đã có 12 lần ra sân và ghi một bàn thắng,[34] khi Real Madrid giành chức vô địch lần thứ ba liên tiếp và thứ 13 giải đấu này.[35]
Anh thường xuyên đá chính trong mùa giải khi Real Madrid vô địch La Liga 2019–20.[36]
Tháng 8 năm 2021, Casemiro gia hạn hợp đồng đến tháng 6 năm 2025.[37] Một năm sau, Casemiro được nhận giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất trận khi Real Madrid đánh bại Eintracht Frankfurt 2–0 tại Siêu cúp 2022.[38]
Manchester United
[sửa | sửa mã nguồn]2022–23
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 19 tháng 8 năm 2022, Real Madrid và Manchester United thông báo rằng họ đã đạt được thỏa thuận chuyển nhượng của Casemiro.[39][40] Ba ngày sau, anh ký hợp đồng 4 năm với Manchester United, với tùy chọn gia hạn thêm một năm.[41] Thỏa thuận này với mức phí 60 triệu bảng cộng thêm 10 triệu bảng tiện ích bổ sung.[42]
Ngày 27 tháng 8, Casemiro có trận ra mắt câu lạc bộ khi vào sân thay người trong trận thắng trên sân khách ở Premier League trước Southampton.[43] Ngày 22 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Premier League từ một pha đánh đầu ở phút thứ 94, giúp Manchester United gỡ hòa 1–1 trước Chelsea.[44] Ngày 28 tháng 1 năm 2023, anh lập một cú đúp cho Manchester United trong chiến thắng 3–1 trước Reading ở Cúp FA.[45]
Ngày 4 tháng 2, Casemiro nhận thẻ đỏ và đuổi khỏi sân vì hành vi bạo lực khi bóp cổ Will Hughes trong khi pha tranh chấp mà Antony và Jeffrey Schlupp đã phải nhận thẻ vàng khi Manchester United giành chiến thắng 2–1 trước Crystal Palace. Điều đó khiến anh bi cấm thi đấu ba trận trong giải đấu.[46] Ngày 26 tháng 2, anh cùng đồng đội giành chức vô địch EFL Cup, chiếc cúp đầu tiên của anh tại Manchester United, ghi bàn mở tỷ số vào lưới Newcastle United ở phút thứ 33. Màn trình diễn của anh trong trận đấu này cũng đã mang về cho mình với Giải Alan Hardaker.[47] Trong trận hòa 0–0 trước Southampton vào ngày 12 tháng 3, Casemiro nhận thẻ đỏ vì pha bóng vào Carlos Alcaraz, nơi mà trọng tài Anthony Taylor đã lật ngược quyết định rút thẻ vàng ban đầu thành một thẻ đỏ trực tiếp sau khi kiểm trả VAR, điều đó khiến anh nhận án treo giò 4 trận.[48] Đồng thời, anh cũng là trở thành cầu thủ duy nhất nhận 2 thẻ đỏ tại Premier League 2022–23 và là cầu thủ duy nhất Manchester United nhận thẻ đỏ ở mùa giải đó.[49]
2023–24
[sửa | sửa mã nguồn]Sau mùa giải 2022–23 thành công rực rỡ. Tuy nhiên, Casemiro sa sút không phanh khi đã trải qua 4 trận đầu tồi tệ ở Premier League. Trong trận gặp Brighton ở vòng 6 Premier League, anh thực hiện pha chuyền bóng rất kém một cách bất thường và nhiều lần bị mất bóng, cùng với sự chậm chạp về mặt tốc độ và thể lực. Điều đó dẫn đến Manchester United để thua 1–3, và từ đó anh bị hàng loạt truyền thống đánh giá tệ nhất chưa từng có.[50]
Ngày 20 tháng 9 năm 2023, anh lập cú đúp ở trận gặp Bayern Munich ở trên sân khách trong lần ra sân thứ 100 ở mọi đấu trường châu Âu, nhưng không thể giúp Manchester United gỡ hoà và để thất bại chung cuộc 3–4.[51]
Ngày 3 tháng 10, Casemiro lần thứ 3 nhận thẻ đỏ trong tình huống phạm lỗi trực tiếp với cầu thủ đối phương khi cầm bóng từ đường chuyền lỗi của thủ thành André Onana trong trận gặp Galatasary ở Champion League. Bốn ngày sau, anh mắc lỗi trực tiếp khi để mất bóng trong đường chuyền dẫn đến mở tỷ số cho phía Brentford, nhưng kết quả Manchester United cũng giành chiến thắng chung cuộc 2–1 bởi Scott McTominay ghi lập cú đúp chỉ trong mấy phút cuối.[52]
Trong trận thua đậm của Manchester United trước Newcastle ở cúp EFL, Casemiro dính chấn thương nặng ở gần kheo khiến anh phải nghỉ thi đấu dài hạn trong sự nghiệp đến hết năm 2023.[53]
Bước sang năm 2024, Casemiro trở lại đội hình Manchester United dự trận gặp Tottenham vào ngày 14 tháng 1, nhưng không được tung vào sân suốt 90 phút. Ngay sau đó, anh đá chính trong trận gặp Newport County vào ngày 28 tháng 1, khi cùng Man United thắng 4–2.[54]
Ngày 28 tháng 2, trong trận gặp Nottingham Forest ở vòng 16 đội cúp FA, anh ghi bàn muộn khi thực hiện pha đánh đầu vào lưới để giúp Manchester United ẩn định chiến thắng 1–0 và đưa đội bóng vào vòng tứ kết giải đấu.[55]
Tuy nhiên, Casemiro liên tiếp màn trình diễn rất tệ hại trong suốt mấy trận đấu mà không hề lấy phong độ cùng với sự chậm chạm về mọi thể hiện của mình. Điều đó khiến cổ động viên Manchester United đòi anh rời khỏi đó, đặc biệt là trong trận gặp Chelsea ở trên sân Stamford Bridge vào ngày 4 tháng 4, Casemiro mắc lỗi ở vị trí và không kèm theo Conor Gallagher để người đó sút vào lưới mở tỷ số cho Chelsea khi Manchester United thua 3–4.[56] Tiếp đó trận gặp Bournemouth vào ngày 13 tháng 4, anh tiếp tục có một màn trình diễn rất tệ hại dẫn đến bàn thắng nghiêng về Bournemouth 1–2 trong trận hòa chung cuộc 2–2 trên sân Vitality.[57]
Đêm ngày 6 tháng 5, Casemiro được bổ trí ở hậu vệ do hàng loạt trung vệ chấn thương và thi đấu cực kỳ tệ hại dẫn đến Manchester United mấy bàn thua, anh dâng quá cao và dễ dàng bị Michael Olise vượt qua rồi ghi bàn dẫn đến bàn thua thứ nhất của Manchester United ở phút thứ 12. Tiếp đó Jonny Evans cũng mắc lỗi phải nhận bàn thua thứ hai. Sang hiệp 2, Casemiro mắc lỗi gián tiếp khi không kèm theo một hậu vệ Tyrell Mitchell để người đó ghi bàn, sau đó Casemiro mắc lỗi trực tiếp dẫn đến mất bóng vào Crystal Palace để cho Michael Olise lập cú đúp ở phút thứ 66, điều đó khiến anh cùng đồng đội Manchester United chấp nhận thua đậm 0–4 trước Crystal Palace.[58][59] Sau trận đó, hàng loạt truyền thống chấm điểm Casemiro là một trong những cầu thủ chơi tệ nhất, anh còn bị cổ động viên Man United kêu gọi rời đi hay giải nghệ, thầm chí còn bị đòi sang Saudi Pro League ở Ả Rập Xê Út hay Major League Soccer ở Mỹ.[60][61][62] Ngay sau đó, anh cũng bị loại khỏi danh sách tuyển thủ Brasil tham dự Copa America 2024 do màn trình diễn tệ hại trong mấy trận gần đây, nhất là gặp Crystal Palace.[63]
2024–25
[sửa | sửa mã nguồn]Trong kỳ chuyển nhượng mùa hè 2024, có tin đồn xoay quanh việc các câu lạc bộ Saudi Pro League muốn ký hợp đồng với Casemiro ở mức giá luôn đòi hỏi, trong đó Al Nassr. Tuy nhiên, thỏa thuận đó sụp đổ do đó anh vẫn ở lại Manchester United.[64]
Trong 2 trận đầu Premier League, anh vẫn thể hiện phong độ tồi tệ hơn so với mùa giải năm ngoái, trong đó trận gặp Brighton khi để anh mắc lỗi dẫn đến bàn thua ở phút bù giờ cuối cùng khiến Manchester United nhận thất bại 1–2.
Chiều ngày 1 tháng 9 năm 2024, trong trận gặp Liverpool ở vòng 3 Premier League, Casemiro có một màn trình diễn cực kỳ tệ hại dẫn đến 2 bàn thua cách biệt. Khi hiệp 2 bắt đầu, anh được rút khỏi sân để nhường chỗ cho Toby Collyer khi Manchester United để thua thảm với tỷ số chung cuộc 0–3.[65][66] Đây là một màn trình diễn bị xem là đánh giá tệ nhất trong cả trận đấu lẫn sự nghiệp của Casemiro, nó còn tệ hơn so với màn trình diễn của anh ở trong trận thua 0–4 trước Crystal Palace vào tháng 5 năm 2024. Anh còn bị cổ động viên Man United đòi ban lãnh đạo chấm dứt hợp đồng để tiễn mình ra khỏi Manchester United dù chuyển nhượng hè 2024 vừa mới kết thúc sau ngày 31 tháng 8.[67][68]
Sự nghiệp quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]Đội tuyển trẻ
[sửa | sửa mã nguồn]Ở U17 Brazil, Casemiro đã có bảy lần ra sân với một bàn thắng duy nhất.[69] Anh đã từng thi đấu cho U-20 Brazil tại Giải vô địch trẻ Nam Mỹ 2011 và FIFA U-20 World Cup 2011,[70] ghi ba bàn sau tổng cộng 15 lần ra sân cho U20 Brazil.[69]
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Casemiro có trận ra mắt đội tuyển quốc gia Brazil vào ngày 14 tháng 9 năm 2011, trong trận hòa 0–0 trước Argentina, ở tuổi 19.[71] Anh được huấn luyện viên Dunga triệu tập lên tuyển Brazil dự Copa América 2015, nhưng chưa được ra sân trận nào ở giải đấu đó.[72]
Ngày 5 tháng 5 năm 2016, anh có tên trong danh sách 23 cầu thủ Brazil tham dự Copa América Centenario được tổ chức tại Hoa Kỳ.[73]
Tháng 5 năm 2018, Casemiro được huấn luyện viên Tite lựa chọn cho FIFA World Cup 2018.[74] Anh ra mắt giải đấu vào ngày 17 tháng 6, thi đấu 60 phút trong trận hòa 1–1 trước Thụy Sĩ ở vòng bảng.[75]
Tháng 5 năm 2019, anh có tên trong đội hình 23 cầu thủ của Brazil tham dự Copa América 2019 trên sân nhà.[76] Trong trận đấu cuối của vòng bảng tại Arena Corinthians, gặp Peru, anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên ẩn định chiến thắng 5–0, nhưng cũng bị đuổi khỏi sân vì hai thẻ vàng và bị treo giò ở trận tiếp theo.[77] Ngày 7 tháng 7, anh đá chính trong chiến thắng 3–1 của Brazil trước Peru ở trận chung kết Copa América 2019 trên Sân vận động Maracanã.[78]
Casemiro có tên trong đội hình tham dự Copa América 2021 vào ngày 9 tháng 6 năm 2021.[79] Trong trận thứ ba của Brazil vào ngày 23 tháng 6, anh ghi bàn thắng ấn định chiến thắng sau quả phạt góc của Neymar ở phút bù giờ, giúp Brazil đánh bại Colombia với tỷ số 2–1. [80] Ngày 10 tháng 7, anh đá chính trong trận thua 0–1 trước Argentina ở trận chung kết.[81]
Ngày 7 tháng 11 năm 2022, Casemiro có tên trong đội hình tham dự FIFA World Cup 2022 tại Qatar.[82] Ngày 28 tháng 11, anh ghi bàn thắng quyết định trong trận đấu thứ hai gặp Thụy Sĩ. [83] Brazil đã bị loại bởi Croatia ở trận tứ kết sau trận thua 2–4 trong loạt sút luân lưu sau khi cầm hòa 1–1 ở hiệp phụ vào ngày 9 tháng 12, dù Casemiro đã thực hiện quả đá phạt đền.[84]
Phong cách chơi
[sửa | sửa mã nguồn]Casemiro chủ yếu chơi ở vị trí tiền vệ phòng ngự,[85] mặc dù anh cũng được bố trí ở vị trí tiền đạo cắm ở trung tâm sân[86][87] hoặc thậm chí còn là trung vệ đôi khi.[88] Casemiro là một tiền vệ thông minh, thể chất mạnh mẽ, cơ động, năng nổ và nỗ lực tắc bóng với hiệu suất thi đấu cực kỳ cao.[89][87][90][91] Trong khi anh chủ yếu được biết đến với khả năng mang lại sự cân bằng cho các đội bóng bằng cách hỗ trợ các đồng đội thiên về tấn công hơn trong phòng thủ và phân phối bóng cho họ một cách chính xác sau khi giành lại quyền sở hữu, anh cũng là một tiền vệ toàn diện, sở hữu cú sút uy lực từ bên ngoài vòng cấm, và khả năng phân phối đáng tin cậy, cũng như khả năng tiến lên phía trước khi anh đi bóng hoặc bắt đầu tấn công bằng đường chuyền. Những đặc điểm này cũng có đóng góp tấn công của anh hoặc thậm chí ghi bàn, bên cạnh việc phá vỡ các trận đấu.[87][92][93][94][95][96] Hơn nữa, phản ứng nhanh nhạy, cũng như khả năng chọn vị trí tuyệt vời, khả năng đọc trận đấu và dự đoán tốt, giúp Casemiro thể hiện xuất sắc vai trò tiền vệ mỏ neo trước hàng phòng ngự, bằng cách phá vỡ các đợt phản công và che chắn cho hàng phòng ngự.[87][89][97][98][99]
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến ngày 17 tháng 9 năm 2024
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp Quốc gia[a] | Cúp Liên đoàn[b] | Châu lục | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
São Paulo | 2010 | 18 | 2 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 0 | 0 | 18 | 2 | |
2011 | 21 | 4 | 5 | 1 | — | 2 | 0 | 12 | 1 | 40 | 6 | ||
2012 | 22 | 0 | 9 | 1 | — | 1 | 0 | 18 | 2 | 50 | 3 | ||
2013 | 1 | 0 | 0 | 0 | — | 2 | 0 | 1 | 0 | 4 | 0 | ||
Tổng cộng | 62 | 6 | 14 | 2 | 5 | 0 | 31 | 3 | 112 | 11 | |||
Real Madrid B | 2012–13 | 15 | 1 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 0 | 0 | 15 | 1 | |
Real Madrid | 2012–13 | 1 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | |
2013–14 | 12 | 0 | 7 | 0 | — | 6[c] | 0 | 0 | 0 | 25 | 0 | ||
Porto (mượn) | 2014–15 | 28 | 3 | 1 | 0 | 2 | 0 | 10 | 1 | 0 | 0 | 41 | 4 |
Real Madrid | 2015–16 | 22 | 1 | 1 | 0 | — | 11[c] | 0 | — | 34 | 1 | ||
2016–17 | 25 | 4 | 5 | 0 | — | 9[c] | 2 | 3 | 0 | 42 | 6 | ||
2017–18 | 30 | 5 | 1 | 0 | — | 12[c] | 1 | 5 | 1 | 48 | 7 | ||
2018–19 | 29 | 3 | 5 | 0 | — | 6[c] | 2 | 2 | 0 | 43 | 4 | ||
2019–20 | 35 | 4 | 1 | 0 | — | 8[c] | 1 | 2 | 0 | 46 | 5 | ||
2020–21 | 34 | 6 | 1 | 0 | — | 10[c] | 1 | 1 | 0 | 46 | 7 | ||
2021–22 | 32 | 1 | 3 | 0 | — | 11[c] | 0 | 2 | 0 | 48 | 0 | ||
2022–23 | 1 | 0 | 0 | 0 | — | 0[c] | 0 | 1 | 0 | 2 | 0 | ||
Tổng cộng | 222 | 24 | 24 | 0 | — | 73 | 6 | 17 | 1 | 336 | 31 | ||
Manchester United | 2022–23 | 28 | 4 | 5 | 2 | 6 | 1 | 12[d] | 0 | — | 51 | 7 | |
2023–24 | 25 | 1 | 3 | 1 | 2 | 1 | 2[c] | 2 | — | 32 | 5 | ||
2024–25 | 4 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 0[d] | 0 | 1 | 0 | 6 | 0 | |
Tổng cộng | 57 | 5 | 8 | 3 | 9 | 2 | 14 | 2 | 1 | 0 | 89 | 12 | |
Tổng cộng sự nghiệp | 383 | 39 | 47 | 5 | 11 | 2 | 102 | 9 | 18 | 1 | 561 | 56 |
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến ngày 17 tháng 10 năm 2023[100]
Brasil | |||
---|---|---|---|
Năm | Trận | Bàn | |
2011 | 1 | 0 | |
2012 | 4 | 0 | |
2013 | 0 | 0 | |
2014 | 2 | 0 | |
2015 | 2 | 0 | |
2016 | 4 | 0 | |
2017 | 7 | 0 | |
2018 | 12 | 0 | |
2019 | 14 | 3 | |
2020 | 2 | 0 | |
2021 | 11 | 1 | |
2022 | 10 | 2 | |
2023 | 6 | 1 | |
Tổng cộng | 75 | 7 |
Bàn thắng quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]Bàn thắng và kết quả của Brasil được để trước
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 22 tháng 6 năm 2019 | Arena Corinthians, São Paulo, Brasil | Perú | 1–0 | 5–0 | Copa América 2019 |
2. | 6 tháng 9 năm 2019 | Sân vận động Hard Rock, Miami, Hoa Kỳ | Colombia | 1–0 | 2–2 | Giao hữu |
3. | 13 tháng 10 năm 2019 | Sân vận động Quốc gia, Kallang, Singapore | Nigeria | 1–1 | 1–1 | |
4. | 23 tháng 6 năm 2021 | Sân vận động Olímpico Nilton Santos, Rio de Janeiro, Brasil | Colombia | 2–0 | 2–0 | Copa América 2021 |
5. | 27 tháng 1 năm 2022 | Sân vận động Rodrigo Paz Delgado, Quito, Ecuador | Ecuador | 1–0 | 1–1 | Vòng loại FIFA World Cup 2022 |
6. | 28 tháng 11 năm 2022 | Sân vận động 974, Doha, Qatar | Thụy Sĩ | 1–0 | 1–0 | FIFA World Cup 2022 |
7. | 25 tháng 3 năm 2023 | Sân vận động Ibn Batouta, Tangier, Maroc | Maroc | 1–1 | 1–2 | Giao hữu |
Danh hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]São Paulo
[sửa | sửa mã nguồn]- Copa Sudamericana: 2012
Real Madrid
[sửa | sửa mã nguồn]- La Liga: 2016–17, 2019–20, 2021–22
- Copa del Rey: 2013–14
- Supercopa de España: 2017, 2019–20, 2021–22
- UEFA Champions League: 2013–14; 2015–16, 2016–17, 2017–18, 2021–22
- UEFA Super Cup: 2016, 2017, 2022
- FIFA Club World Cup: 2014, 2016, 2017, 2018
Manchester United
[sửa | sửa mã nguồn]Quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]U-20 Brasil
[sửa | sửa mã nguồn]Brasil
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b “FIFA Club World Cup UAE 2017: List of players: Real Madrid CF” (PDF). FIFA. ngày 16 tháng 12 năm 2017. tr. 5. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2017.
- ^ “Real Madrid CF”. 10 tháng 6 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2018.
- ^ “"Aonde você vai, Casemiro?" A história do segredo mais bem guardado do Real Madrid” ["Where are you going, Casemiro?" The story of Real Madrid's best kept secret]. El País (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 4 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2017.
- ^ Coombs, Dan (27 tháng 2 năm 2023). “Best defensive midfielder in the world: Casemiro named in FIFPro World XI”. United in Focus. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2023.
- ^ Kogi, Claudia; Apindi, Cyprine (14 tháng 2 năm 2023). “Top 20 best defensive midfielders in the world today: who are they?”. Sports Brief. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2023.
- ^ Robinson, Rory (23 tháng 9 năm 2022). “Casemiro to Manchester United: Everything You Need to Know”. Boardroom. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Brazil: the talent factory 2010 featuring Eron, Casemiro, Lucas Moura, Alan Patrick, Bernardo, Elkeson and Neto Berola”. Pitaco do Gringo. 20 tháng 9 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2011.
- ^ “Casemiro & Neymar, forever rivals”. FIFA. 12 tháng 9 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2013.
- ^ “11 jogadores que 'mudaram de nome' durante a carreira” [11 players who "changed names" during their careers] (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Universo Online. 15 tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2016.
- ^ “No finzinho, São Paulo empata com o Cruzeiro em ótimo jogo no Morumbi” [In the very end, São Paulo draw with Cruzeiro in great game at the Morumbi] (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Globo Esporte. 15 tháng 8 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2013.
- ^ “Líder, São Paulo freia Mogi Mirim e completa dez vitórias seguidas” [Leaders, São Paulo halt Mogi Mirim and complete ten consecutive victories]. Veja (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Abril Comunicações. 7 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2018.
- ^ “Sao Paulo terminó con el sueño de U. de Chile en la Copa Sudamericana” [São Paulo ended the dream of U. de Chile in the South American Cup] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Radio Cooperativa. 7 tháng 7 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2016.
- ^ “UEFA Champions League: Casemiro's Madrid Motivation”. UEFA. 3 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2023.
- ^ “São Paulo empresta Casemiro ao Real Madrid, e volante começará no time B” [São Paulo loan Casemiro to Real Madrid, and holding midfielder will start in B-team]. Lance! (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 31 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2013.
- ^ “3–1: Aníbal lidera la victoria del Sabadell ante el Castilla” [3–1: Aníbal leads Sabadell win against Castilla]. Mundo Deportivo (bằng tiếng Tây Ban Nha). Barcelona. 16 tháng 2 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2013.
- ^ “Ozil at the double for faltering Real”. ESPN FC. 20 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2013.
- ^ Jiménez, Rubén (2 tháng 6 năm 2013). “Fiesta de graduación del Castilla que complica al Alcorcon” [Castilla graduation party makes life harder for Alcorcón]. Marca (bằng tiếng Tây Ban Nha). Madrid. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2016.
- ^ “Madrid announce Casemiro deal”. ESPN FC. 10 tháng 6 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2013.
- ^ “Real Madrid anuncia oficialmente a compra de Casemiro” [Real Madrid officially announce purchase of Casemiro]. Gazeta Esportiva (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 10 tháng 6 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2013.
- ^ “Relatório da diretoria 2013” [Directorial report 2013] (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo FC. 18 tháng 4 năm 2014. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2015.
- ^ “Official announcement: Casemiro”. Real Madrid CF. 19 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2014.
- ^ “Ex-FC Porto Casemiro é o exemplo de Lucas Silva” [Former FC Porto man Casemiro is Lucas Silva's model]. O Jogo (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Porto. 13 tháng 11 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2016.
- ^ “Yacine Brahimi and Casemiro turn on the style to help Porto defeat Basel”. The Guardian. London. 10 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2016.
- ^ “Official announcement: Casemiro”. Real Madrid CF. 5 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2015.
- ^ “Official announcement: Casemiro”. Real Madrid CF. 31 tháng 8 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2015.
- ^ “Las Palmas 1–2 Real Madrid”. BBC Sport. 13 tháng 3 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2016.
- ^ “La diferencia es Casemiro” [Casemiro is the difference]. Marca (bằng tiếng Tây Ban Nha). Spain. 3 tháng 4 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2016.
- ^ “Spot-on Real Madrid defeat Atlético in final again”. UEFA. 28 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
- ^ “UEFA Champions League: Casemiro's Madrid Motivation”. UEFA. 3 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2023.
- ^ “El Real Madrid, campeón de LaLiga Santander 2016/17” [Real Madrid, LaLiga Santander champions 2016/17] (bằng tiếng Tây Ban Nha). La Liga. 21 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2017.
- ^ “Malaga 0–2 Real Madrid”. BBC Sport. 21 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2017.
- ^ “Majestic Real Madrid win Champions League in Cardiff”. UEFA. 3 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.
- ^ “Isco goal gives Real Madrid victory over Manchester United in Super Cup”. The Guardian. London. 8 tháng 8 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2017.
- ^ “Así llegan Real Madrid y Liverpool a la final de la Champions” [That is how Real Madrid and Liverpool arrive to the Champions final] (bằng tiếng Tây Ban Nha). RCN Radio. 25 tháng 5 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2018.
- ^ “Madrid beat Liverpool to complete hat-trick”. UEFA. 26 tháng 5 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2018.
- ^ “Real Madrid win the longest LaLiga Santander season”. Marca. Spain. 17 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2020.
- ^ “Official Announcement: Casemiro”. Real Madrid CF. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2021.
- ^ “Real Madrid 2–0 Frankfurt: Five-star Madrid triumph in Helsinki”. UEFA. 10 tháng 8 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Official Announcement: Casemiro”. Real Madrid CF. 19 tháng 8 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2022.
- ^ “United reach agreement for Casemiro transfer”. Manchester United F.C. 19 tháng 8 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Casemiro signs for Manchester United”. Manchester United F.C. 22 tháng 8 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Casemiro: Manchester United agree £70m deal to sign Real Madrid midfielder”. BBC Sport. 19 tháng 8 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2022.
- ^ McNulty, Phil (27 tháng 8 năm 2022). “Southampton 0–1 Man Utd: Bruno Fernandes scores only goal at St Mary's to end dismal away run”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
- ^ McNulty, Phil (22 tháng 10 năm 2022). “Chelsea 1–1 Man Utd: Hosts remain above United after dramatic finale”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2022.
- ^ Sutcliffe, Steve (28 tháng 1 năm 2023). “Manchester United 3–1 Reading: Casemiro double helps hosts reach FA Cup fifth round”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2023.
- ^ Stone, Simon (4 tháng 2 năm 2023). “Manchester United 2-1 Crystal Palace: Marcus Rashford helps hosts to 13th straight home win”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2023.
- ^ Segar, David (27 tháng 2 năm 2023). “Casemiro wins the battle of Brazil in midfield as Man Utd edge Newcastle in EFL Cup final”. KeepUp.com.au. Australian Professional Leagues Company. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2023.
...man of the match Casemiro largely to thank.
- ^ McNulty, Phil (12 tháng 3 năm 2023). “Man Utd 0-0 Southampton: Saints earn draw against 10-man Man Utd”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2023.
- ^ “Premier League Player Stats”. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2023.
- ^ “Casemiro told he 'looked like a 45-year-old' in Manchester United's dreadful defeat to Brighton”. Metro Sport (bằng tiếng Anh). 17 tháng 9 năm 2023.
- ^ “Bayern Munich 4-3 Man Utd: Player ratings as Champions League clash produces seven-goal thriller”. 90min.com. 20 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2024.
- ^ “Sự sa sút và chấn thương của Casemiro là cơn đau đầu không dứt với Ten Hag”. Báo Lao động. 7 tháng 10 năm 2023.
- ^ “Casemiro ruled out until Christmas at earliest - Ten Hag”. ESPN (bằng tiếng Anh). 7 tháng 11 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2024.
- ^ “"Newport 2 Man Utd 4"”. Manchester United (bằng tiếng Anh). 29 tháng 1 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2024.
- ^ “Casemiro ghi bàn ở phút 89, Man Utd vào tứ kết FA Cup”. Báo Dân trí. 29 tháng 2 năm 2024.
- ^ “Casemiro gây phẫn nộ”. Zing News. 5 tháng 4 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2024.
- ^ “Man Utd gây thất vọng Casemiro bị chỉ trích nặng nề”. Báo Dân trí. 14 tháng 4 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2024.
- ^ “"Crystal Palace 4-0 Man Utd: Erik ten Hag's side humiliated as Michael Olise inspires hosts to rout"”. Sky Sports (bằng tiếng Anh). 7 tháng 5 năm 2024.
- ^ “Man Utd lập kỷ lục tệ hại sau trận thua đậm trước Crystal Palace”. Báo Dân trí. 7 tháng 5 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2024.
- ^ “Thi đấu như gã hề, Casemiro bị yêu cầu rời Man Utd”. Báo Dân trí. 7 tháng 5 năm 2024.
- ^ “CĐV kêu gọi Casemiro giải nghệ sau màn trình diễn thảm hoạ”. Báo Dân Việt. 7 tháng 5 năm 2024.
- ^ “Casemiro nhận 'gạch đá', được khuyên nên sang MLS hoặc Saudi Pro League”. Goal. 7 tháng 5 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2024.
- ^ “Casemiro nhận chén đắng sau màn trình diễn thảm họa ở MU”. Vietnamnet. 11 tháng 5 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2024.
- ^ “'We are very happy with him!' - Erik ten Hag hints Casemiro will stay at Manchester United this summer despite interest from Saudi Arabia”. Goal (bằng tiếng Anh). 11 tháng 8 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2024.
- ^ “Man Utd 0-3 Liverpool: Luis Diaz scores two goals from Casemiro errors as Arne Slot heaps pressure on Erik ten Hag”. Sky Sports (bằng tiếng Anh). 2 tháng 9 năm 2024.
- ^ “Cơn ác mộng của Man Utd”. Zing News. 2 tháng 9 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2024.
- ^ Hytner, David (1 tháng 9 năm 2024). “Luis Díaz strikes twice as dominant Liverpool win at Manchester United”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2024.
- ^ Smith, George; Killen, Stephen; Flintham, Jack (1 tháng 9 năm 2024). “Gary Neville delivers scathing Casemiro Man United verdict after Liverpool goal”. Manchester Evening News (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2024.
- ^ a b “Casemiro”. besoccer.com. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Casemiro: We're gunning for the title”. FIFA. 22 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2011.
- ^ “Bolas na trave não resolvem: Brasil e Argentina ficam no zero em Córdoba” [Balls in the bar do not solve it: Brazil and Argentina stay blank in Córdoba] (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Globo Esporte. 14 tháng 9 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2013.
- ^ “Oscar left out of Brazil's Copa America squad”. Goal. 5 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2016.
- ^ “Dunga convoca Seleção para a Copa América com 7 jogadores olímpicos” [Dunga calls up Seleção to the Copa América with seven Olympic players] (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Globo Esporte. 5 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2016.
- ^ “World Cup: Neymar named in Brazil's 23-man squad”. BBC Sport. 14 tháng 5 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2018.
- ^ Reddy, Luke (17 tháng 6 năm 2018). “Brazil 1–1 Switzerland”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2018.
- ^ “Brazil name Copa America squad”. Football Italia. Tiro Media. 17 tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2019.
- ^ Clancy, Conor (22 tháng 6 năm 2019). “Casemiro suspended for Brazil's Copa America quarter-final”. Marca. Madrid. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2019.
- ^ Smyth, Rob (7 tháng 7 năm 2019). “Brazil 3–1 Peru”. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2019.
- ^ “Tite define convocados da Seleção Brasileira para a Copa América 2021” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Brazilian Football Confederation. 9 tháng 6 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2021.
- ^ “Casemiro gives Brazil controversial win”. BBC Sport. 24 tháng 6 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2021.
- ^ Graham, Bryan Armen (10 tháng 7 năm 2021). “Argentina 1–0 Brazil: Copa América final – as it happened”. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
- ^ “Seleção Brasileira está convocada para a Copa do Mundo FIFA Qatar 2022” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). CBF. 7 tháng 11 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2022.
- ^ “Casemiro stunner ends Switzerland resistance to fire Brazil into last 16”. The Guardian. London. 28 tháng 11 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2023.
- ^ “World Cup quarter-final: Croatia 1–1 Brazil (4–2 pens) – as it happened”. The Guardian. London. 9 tháng 12 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2022.
- ^ Downie, Andrew (29 tháng 6 năm 2018). “Favorites? If you say so: Brazilian midfielder Casemiro”. Reuters. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
- ^ de Juan, Manu (7 tháng 11 năm 2017). “Casemiro, more box-to-box than a defensive midfielder”. Diario AS. Madrid. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
- ^ a b c d “Casemiro put on a show for Real Madrid in the Champions League final”. Fox Sports. 29 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
- ^ Bull, J.J. (13 tháng 9 năm 2017). “Isco is one of the world's best players on current form – what does it mean for Gareth Bale's Real Madrid career?”. The Daily Telegraph. London. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
- ^ a b Lowe, Sid (26 tháng 4 năm 2016). “Casemiro: from 'chubby' sub to the rock on whom Real Madrid now depend”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
- ^ “Casemiro a Real hero, Messi inspires Barca, Atleti joy, Aspas' derby delight”. ESPN. 20 tháng 3 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
- ^ Terroba, Patricia (2 tháng 4 năm 2017). “The Casemiro syndrome”. Madrid. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
- ^ Train, Rob (14 tháng 8 năm 2017). “Well-rounded Casemiro quickly becoming indispensable for Real Madrid”. ESPN. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
- ^ De la Riva, Mario (18 tháng 8 năm 2019). “Real Madrid: Player-by-player verdicts as Celta Vigo beaten”. Diario AS. Madrid. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
- ^ Gatto, Riccardo (31 tháng 12 năm 2011). “San Paolo, Cunha: "Casemiro? Al momento..."” [San Paolo, Cunha: "Casemiro? At the moment..."] (bằng tiếng Ý). tuttomercatoweb.com. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2019.
- ^ Gasparotto, Manlio (17 tháng 8 năm 2011). “Mondiale U20, occhio a Casemiro "Faccio tutto, difesa e attacco"” [U20 World Cup, look out for Casemiro "I do everything, defence and attack"]. La Gazzetta dello Sport (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2019.
- ^ Matchett, Karl (22 tháng 5 năm 2017). “Ranking Every Player for Real Madrid in 2016/17 Campaign”. Bleacher Report. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2019.
- ^ Cox, Michael (22 tháng 2 năm 2019). “Fernandinho and Casemiro lead the game's most underrated midfielders”. ESPN. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
- ^ Roncero, Tomás (9 tháng 3 năm 2016). “The Casemiro effect”. Diario AS. Madrid. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
- ^ Sobhani, Kiyan (26 tháng 9 năm 2019). “Real Madrid Have Suddenly Become Defensively Compact – Good Timing Heading into The Madrid Derby”. MSN. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2019.
- ^ “Casemiro – Matches”. Soccerway. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2018.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Sinh năm 1992
- Nhân vật còn sống
- Cầu thủ bóng đá nam Brasil
- Cầu thủ bóng đá Campeonato Brasileiro Série A
- Cầu thủ bóng đá Real Madrid
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bồ Đào Nha
- Cầu thủ bóng đá São Paulo FC
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil
- Cầu thủ bóng đá nam Brasil ở nước ngoài
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2018
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
- Cầu thủ bóng đá La Liga
- Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha
- Cầu thủ bóng đá Premier League
- Cầu thủ bóng đá Manchester United F.C.
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh