[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Callionymus maculatus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Callionymus maculatus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Syngnathiformes
Họ (familia)Callionymidae
Chi (genus)Callionymus
Loài (species)C. maculatus
Danh pháp hai phần
Callionymus maculatus
Rafinesque, 1810
Danh pháp đồng nghĩa
  • Callionymus cithara Valenciennes, 1837

Callionymus maculatus, tên thông thường là cá đàn lia đốm, là một loài cá biển thuộc chi Callionymus trong họ Cá đàn lia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1810.

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

C. maculatus có phạm vi phân bố rộng rãi ở Đông Bắc Đại Tây Dương. C. maculatus xuất hiện từ Iceland và Tây Na Uy, trải rộng về phía nam, dọc theo vùng bờ biển các nước Tây Âu đến SénégalTây Phi. C. maculatus cũng đã được ghi nhận khắp Địa Trung Hải, bao gồm cả biển Adriaticbiển Aegea nhưng không có mặt ở Biển Đen[1][2]. C. maculatus sống trên đáy cát, được tìm thấy ở độ sâu khoảng từ 22 đến 630 m[1][2].

Chiều dài tối đa được ghi nhận ở C. maculatus là khoảng 16,5 cm. C. maculatus là loài dị hình giới tính: vây lưng thứ nhất và thứ hai của cá đực vươn cao hơn so với cá cái, và màu sắc trên cơ thể cũng có đôi chút khác biệt. Cơ thể của chúng có màu vàng cát đến màu nâu. Lưng có các đốm và chấm màu trắng. Hai bên thân có 2 hàng đốm đen. Cả hai vây lưng của cá đực có những hàng đốm đen trên màng vây; cá cái không có điểm này[3].

Cá đàn lia đốm là một loài cá sống đáy trên nền cát. Giống như các loài khác thuộc họ Callionymidae, loài cá này sinh sản theo cặp và có trứng, ấu trùnghậu ấu trùng sống gần mặt biển khơi[1]. Trong một nghiên cứu được thực hiện ở Scotland, mùa sinh sản của C. maculatus là từ tháng 4 đến tháng 9[1]. Cá cái trưởng thành nhanh hơn cá đực và là cá đẻ theo loạt[1]. Cá đực thuần thục sinh dục ở những độ tuổi khác nhau[1]. Các tia của vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi phát triển với tốc độ bằng nhau ở cá cái nhưng phát triển với tốc độ khác nhau ở cá đực sau khi đạt được sự thuần thục. Thức ăn của C. maculatus là các loài động vật không xương sống ở sát đáy, chủ yếu là giun, ốc biểnđộng vật giáp xác[2]. Cụ thể, loài này ăn chủ yếu là giun nhiều tơ (Polychaeta) và giáp xác chân hai loại (Amphipoda), nhưng thân mềm hai mảnh vỏ (Bivalvia), tômsao biển đuôi rắn (Ophiuroidea) cũng là thành phần thường xuyên trong khẩu phần ăn của nó[4]. Các cá thể nhỏ hơn ăn nhiều giáp xác chân hai loại và ít ăn giun nhiều tơ hơn các cá thể lớn hơn.

Số gai ở vây lưng: 4; Số tia vây mềm ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 0; Số tia vây mềm ở vây hậu môn: 9; Số tia vây mềm ở vây ngực: 17 - 22; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây mềm ở vây bụng: 5[3].

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g Smith-Vaniz, W.F. (2015). Callionymus maculatus. The IUCN Red List of Threatened Species. 2015: e.T198635A42837242. doi:10.2305/IUCN.UK.2015-4.RLTS.T198635A42837242.en. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2019.
  2. ^ a b c Callionymus maculatus (Rafinesque, 1810)”. FishBase.
  3. ^ a b Food and Agriculture Organization of the United Nations (2018), The living marine resources of the Eastern Central Atlantic, quyển 4, Nhà xuất bản Food & Agriculture Org., tr.2817 ISBN 9789251092675
  4. ^ R. N. Gibson & I. A. Ezzi (1979). “Aspects of the biology of the spotted dragonet Callionymus maculatus Rafmesque‐Schmaltz from the west coast of Scotland”. Journal of Fish Biology. 15 (5): 555–569. doi:10.1111/j.1095-8649.1979.tb03646.x.