[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Zendaya

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Zendaya
Zendaya tại buổi ra mắt phim Spider-Man: Far From Home năm 2019
SinhZendaya Maree Stoermer Coleman[1]
1 tháng 9, 1996 (28 tuổi)
Oakland, California, Hoa Kỳ
Quốc tịch Hoa Kỳ
Nghề nghiệp
  • Diễn viên
  • ca sĩ
Năm hoạt động2009–nay
Chiều cao178 cm (5 ft 10 in)
Cân nặng59 kg (130 lb)
Cha mẹ
  • Kazembe Ajamu Coleman (cha)
  • Claire Stoermer (mẹ)
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
Nhạc cụGiọng hát
Hãng đĩa
Websitezendaya.com

Zendaya Maree Stoermer Coleman (sinh ngày 1 tháng 9 năm 1996 tại Oakland, California, Hoa Kỳ),[3] hay được biết đến rộng rãi là Zendaya, là nữ diễn viên, ca sĩ kiêm người mẫu người Mỹ. Cô bắt đầu sự nghiệp nghệ thuật của mình bằng việc làm người mẫu nhí và nhảy phụ họa, trước khi nhận được nhiều sự quan tâm của công chúng với vai diễn Rocky Blue trong sitcom Shake It Up của kênh Disney Channel (2010-2013). Năm 2013, Zendaya tham dự chương trình truyền hình Dancing with the Stars mùa thứ 16. Từ năm 2015 tới năm 2018, cô đồng sản xuất và đảm nhận vai diễn chính K.C Cooper trong sitcom K.C Undercover của kênh Disney. Năm 2017 là năm đột phá của cô sau khi đảm nhận Mary "MJ" Janes trong phim Spider-Man: Homecoming thuộc Vũ trụ Điện ảnh Marvel và vai Anne Wheeler trong bộ phim nhạc kịch The Greatest Showman

Cô bắt đầu sự nghiệp ca hát độc lập bằng việc ra đĩa đơn "Swag It Out" và "Watch Me" vào năm 2011, và cũng hợp tác với Bella Thorne. Cô ký hợp đồng với hãng đĩa Hollywood Records vào năm 2012, không lâu sau đó cô ra đĩa đơn "Replay", đạt thứ hạng 40 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100Mỹ. Album phòng thu mang chính tên cô (2013) đạt thứ hạng 51 trên bảng xếp hạng Billboard 200 sau khi ra mắt.

Thời thơ ấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Zendaya sinh ngày 1 tháng 9 năm 1996 ở Oakland, California và là con một của bà Claire Maries (nhũ danh Stoermer) và ông Kazember Ajamu (tên cũ là Samuel David Coleman). Cô có năm người anh chị em cùng cha khác mẹ.[4] Cha của cô là người Mỹ gốc Phi, người gốc Arkansas, trong khi mẹ của cô có gốc ĐứcScotland.[4][5] Zendaya từng nói rằng tên của mình có nghĩa là "cảm ơn" trong ngôn ngữ Bantu của tộc người Shona ở Zimbabwe.[6] Cô cũng tham gia đội nhạc kịch thuộc Nhà hát California Shakespeare ở Orinda, California nơi mà mẹ cô đã từng làm quản lý và huấn luyện các học sinh theo chương trình đặc biệt của nhà hát.[7] Cô cũng tham gia quá trình sản xuất ở nhà hát trong lúc tham gia theo học ở Trường nghệ thuật Oakland, và đảm nhận vai Little Ti Moune trong vở Once on This Island ở Berkeley Playhouse, và đột phá với vai diễn "nam" Joe trong vở Caroline và vai Change trong vở Palo Alto.[8]

Zendaya cũng theo học nhảy 3 năm trong một nhóm nhảy tên Future Shock Oakland. Nhóm nhảy trình diễn hip-hop và điệu hula khi cô lên 8.[9][10][11]

Cô cũng theo học chương trình CalShakes ở Nhà hát American Conservatory.[12] Những vai diễn hay của cô cũng bao gồm vở kịch Richard III của William Shakespeare, vai trong Twelfth NightAs You Like It.[13]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

2009-14: Shake It UpDancing with the Stars

[sửa | sửa mã nguồn]
Zendaya tại buổi công chiếu bộ phim Let It Shine của Disney Channel tại Hollywood năm 2012.

Zendaya bắt đầu sự nghiệp diễn xuất chuyên nghiệp bằng việc làm người mẫu ở Macy's, MervynsOld Navy. Cô cũng xuất hiện trong quảng cáo đồ chơi iCarly. Cô từng nhảy phụ họa cho quảng cáo của Sears, cùng với sao Disney lúc bấy giờ là Selena Gomez. Năm 2009, cô cũng xuất hiện trong video ca nhạc thiếu nhi Kidz Bop cho bài hát cover "Hot n Cold" được phát hành trong Kidz Bop 15.[14][15] Cô cũng từng tham gia thử vai cho vai diễn Cece Jones vào tháng 11 năm 2009, để tham gia sitcom Shake It Up (tựa gốc là Dance Dance Chicago) nhưng lại được lựa chọn cho vai diễn Rocky Blue.[16] Trong buổi thử vai, cô trình diễn bài hát "Leave Me Alone" của Michael Jackson. Shake It Up được ra mắt vào ngày 7/11 năm 2010 và đạt 6,2 triệu lượt xem, trở thành bộ sitcom thứ 2 có nhiều người xem nhất trong tập đầu ra mắt trong 27 năm trở lại.[17] Năm 2011, Zendaya ra mắt đĩa đơn độc lập "Swag It Out". Bài hát được Bobby Brackins sáng tác và được sản xuất bởi Glenn A. Foster.[18] Cô cũng xuất hiện trong trailer của quyển "From Bad to Cursed" của Katie Alender.[19] Cùng năm, cô ra mắt "Watch Me", hợp tác với Bella Thorne vào ngày 21/6. Bài hát đạt thứ hạn 86 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Mùa thứ hai của Shake It Up được thông báo vào ngày 16 tháng 3 năm 2011 và lên sóng vào ngày 18 tháng 9 năm 2011. Ngày 5 tháng 6 năm 2011, Shake It Up có một tập phim hợp tác cùng với Good Luck Charlie. Zendaya cũng tham gia dẫn chương trình cho Make Your Mark: Ultimate Dance Off 2011.

Zendaya năm 2013.

Vai diễn phim ngắn đầu tiên của cô là trong phim Frenemies phát hành năm 2012 của kênh Disney Original Movie.[14][20][21] Ngày 29 tháng 2 năm 2012, đĩa đơn "Something to Dance For" được phát hành dưới hình thức quảng bá cho Live 2 Dance. Trong loạt bài hát, Zendaya thu âm 3 bài bao gồm: "Made In Japan", "Same Heart" và "Fashion in Kryptonite" được phát hành thành đĩa đơn chính. Ngày 2 tháng 9 năm 2012, cô kí hợp đồng với hãng Hollywood Records.[22] Tháng 10, cô trình diễn ở Nhạc hội Teen Music và Nhạc hội vì nụ cười.[23] Tháng 2/2013, Zendaya được thông báo là 1 trong những thí sinh tham gia mùa thứ 16 của chương trình Dancing with the Stars.[24] Ở tuổi 16, cô là thí sinh trẻ tuổi nhất từng tham gia chương trình này, trước khi Willow Shields tham gia ở tuổi 14 vào mùa thứ 20. Cô lập đội với Valentin Chmerkovskiy. Vào tháng 5, cặp đôi đạt hạng nhì sau cặp Kellie PicklerDerek Hough.[25][26][27] Album mang tên cô được lên kệ vào ngày 17 tháng 9 năm 2013. Đĩa đơn hit "Replay" được ra mắt vào ngày 16 tháng 7 năm 2013. Bài hát được sáng tác bởi Tiffany Fred và Paul "Phamous" Shelton. Tháng 6 năm 2013, Zendaya ghi hình video cho bài hát. Ngày 25 tháng 7 cùng năm, hãng Disney công bố sẽ dừng Shake It Up sau 3 mùa.[28][29]

Tháng 11 năm 2013, Zendaya được đề cử cho giải Nghệ sĩ của tháng Elvis Duran và được chiếu trên chương trình Today của đài NBC, cô cũng trình diễn live đĩa đơn "Replay" của mình.

Năm 2014, cô được chọn cho vai diễn Zoey Stevens trong phim của Disney sản xuất mang tên Zapped, kể về việc "điện thoại của Zoey bắt đầu điều khiển mọi cậu trai xung quanh Zoey".[30] Cuối năm 2013, Zendaya cũng được lựa chọn cho vai chính cho chương trình Super Awesome Katy[31] của kênh Disney được dự tính ra mắt vào tháng 5 năm 2014 dưới tên gọi K.C Undercover, vai diễn của cô cũng bị đổi thành K.C Cooper thay vì Katy Cooper.[32] Vào năm 2017, Zendaya thừa nhận là mình cũng góp phần vào việc đổi tên series và tên nhân vật, cũng như quyết định một số tính cách của nhân vật.[33] K.C Undercover được công chiếu trên kênh Disney vào ngày 18 tháng 1 năm 2015[34] và phần tiếp theo được lên sóng vào tháng 5 năm 2015.[35]

Năm 2014, Zendaya xuất hiện trong thương vụ hợp tác làm ăn của hãng Hollywood và Republic Records. Vào ngày 6 tháng 3 năm 2015, Timbaland xác nhận là mình đang làm việc với Zendaya cho album thứ hai của cô.[36][37] Bài hát "Something New", có sự góp giọng của Chris Brown được lên kệ vào ngày 5 tháng 2 thông qua hai hãng Hollywood RecordsRepublic Records. Bài hát cũng đánh dấu cho việc ra mắt dưới trướng của hãng Republic Records.[38]

Tháng 2 năm 2015, Giulianna Rancic lôi Zendaya ra làm trò đùa với việc ẩn dụ tóc của cô có mùi như "dầu patchouli" và "cần sa" ở giải Oscar lần thứ 87.[39] Zendaya phản bác lại trên trang Instagram của mình đồng thời cũng nêu ra việc có những người thành công với kiểu tóc lọng Châu Phi, một kiểu tóc không hề có mối liên hệ với thuốc phiện. Hãng Mattel vinh danh Zendaya bằng việc ra mắt búp bê Barbie có hình mẫu của Zendaya tại Oscar.[40]

2016-nay: Chú tâm sự nghiệp đóng phim

[sửa | sửa mã nguồn]
Zendaya tại San Diego Comic-Con 2016 quảng bá Người Nhện: Trở về nhà.

Năm 2016, Zendaya lần đầu tiên đảm nhận vai diễn trên màn ảnh rộng với vai Michelle "MJ" Jones trong phim Người Nhện: Trở về nhà ra rạp vào tháng 7 năm 2017.[41] Bộ phim đạt doanh thu 117 triệu đôla Mỹ trong tuần đầu công chiếu, đạt thứ hạng đầu tiên tại các rạp chiếu.[42] John DeFore của tờ The Hollywood Reporter ca ngợi Zendaya là "người chiếm trọn màn ảnh", David Ehrlich của tờ IndieWire gọi Zendaya là "MVP" dù vai của cô ít xuất hiện trong phim. Tháng 8 năm 2017, Zendaya xuất hiện trong videoclip ca nhạc Versace on the Floor của Bruno Mars.[43]

Vào tháng 12 năm 2017, Zendaya đóng phim nhạc kịch Bậc thầy của những ước mơ, cùng với Hugh Jackman, Zac Efron, Michelle WilliamsRebecca Ferguson. Trong phim Zendaya thủ vai nghệ sĩ đu dây nhào lộn tên Anne Wheeler có mối quan hệ tình cảm với vai của Zac Efron tên Phillip Carlyle, trong thời kì mà các cuộc tình khác chủng tộc là điều cấm kị. Mặc dù bộ phim nhận nhiều ý kiến khen chê từ cắc nhà phê bình, nhưng bộ phim lại có thành công thương mại tốt, trong khi vai diễn của Zendaya và chất xúc tác với Zac Efron được ca ngợi hết lời. Nhà phê bình phim Gleiberman viết trên tờ Variety: "Zendaya và Zac có chất xúc tác tuyệt vời - họ không bao giờ ngừng hỗ trợ lẫn nhau."[44]

Bên cạnh việc lồng tiếng cho phim Smallfoot, Zendaya cũng kí hợp đồng đảm nhận vai trò sản xuất và diễn xuất trong A White Lie, với vai Anita Hemmings kể về một cô gái da trắng Mỹ lai Phi là hậu duệ của một người nô lệ, nhưng bị xem là người da trắng để cô có thể tham gia Vassar trong thập niên 1890.[45] Zendaya đóng chung với Ansel Elgort và Jake Gyllenhaal trong bộ phim kinh dị trinh thám tên Finest Kind. Cô cũng đảm nhận tiếp vai Michelle trong Spider-Man: Far From Home ra mắt vào năm 2019.[46][47] Tháng 6 năm 2018, có tin Zendaya sẽ tham gia phim truyền hình Euphoria trên HBO, cùng tên với chương trình của Israel. Zendaya đảm nhận vai Rue, là người dẫn chính của bộ phim với vai một cô gái nghiện ngập 17 tuổi.[48]

Năm 2021, Zendaya đóng vai chính trong Malcolm & Marie , được quay trong giai đoạn đầu của đại dịch COVID-19 . Quá trình sản xuất tuân thủ các quy trình an toàn rộng rãi và có một đội ngũ tinh gọn để giảm thiểu nguy hiểm cho sức khỏe. Phim có sự tham gia của John David Washington và được đạo diễn bởi Sam Levinson , người cũng đã tạo ra Euphoria. Zendaya phân bổ cổ phần của bộ phim cho tất cả những người tham gia vào việc sản xuất bộ phim, như một cách để thưởng tài chính khi bộ phim được bán.  Một phần số tiền thu được được chia cho Feeding America. Bộ phim được đón nhận trái chiều nhưng diễn xuất của Zendaya được đánh giá tích cực. Brian Truitt của USA Today mô tả cô ấy là "sáng chói" và "lửa tuyệt đối", và Peter Debruge của Variety khen ngợi cô ấy vì "khoác Marie trên bề mặt, chỉ để lộ sức mạnh của nhân vật thông qua các cảnh quay phản ứng và Im lặng".

Vào tháng 4 năm 2021, Zendaya được chọn lồng tiếng cho nhân vật Lola Bunny trong Space Jam: A New Legacy. Lớn lên với bộ phim từ khi còn nhỏ, Zendaya đã rút ra kinh nghiệm của mình với tình yêu bóng rổ của gia đình cho vai diễn này. Zendaya đóng vai Chani trong phim khoa học viễn tưởng Dune của Denis Villeneuve, phần đầu tiên của dự kiến ​​chuyển thể hai phần từ tiểu thuyết cùng tên năm 1965, phát hành vào tháng 9 năm 2021. Nhà phê bình Glenn Kenny gọi nữ diễn viên là "tốt hơn apt" trong vai diễn của cô ấy, trong khi cả Brian Lowry của CNN lưu ý rằng vai trò của cô bị giới hạn trong "hình ảnh mỏng manh" trong tầm nhìn của nhân vật chính. Zendaya đóng lại vai MJ lần thứ ba trong Spider-Man: No Way Home. Bộ phim mở màn cho những đánh giá tích cực với diễn xuất của cô được khen ngợi.

Những dự án khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Hoạt động bên lề

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 9 năm 2012, Zendaya cùng với rapper Lil Wayne và cầu thủ bóng rổ NBA LeBron James tham gia ghi hình bài hát "Scream and Shout" của Will.I.Am với Britney Spears cho quảng cáo tai nghe Beats by Dr. Dre Color.[49] Zendaya cũng là gương mặt của thương hiệu "X-Out"[50] và dòng thời trang của Madonna là "Material Girl",[51] CoverGirl[52] và Chi Hair Care.[53]

Zendaya cũng là đại sứ của Convoy of Hope.[54] Zendaya thu âm cover lại ca khúc "All of Me" của John Legend và trích một phần lợi nhuận cho tổ chức.[55] Cô cũng tổ chức sinh nhật lần thứ 18 với chiến dịch cứu đói ít nhất 150 trẻ em ở Haiti, Tanzania và Philippines thông qua feedONE.[56] Zendaya cũng chào mừng sinh nhật lần thứ 20 với chiến dịch khuyên góp hơn 50,000 đôla Mỹ để ủng hộ cho hội hỗ trợ phụ nữ của Convoy.[54]

Xuất bản sách

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 6 tháng 8 năm 2013, Zendaya xuất bản quyển sách đầu tiên của mình tên Between U and Me: How to Rock Tween Years with Style and Confidence.[57][58]

Thời trang

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2013, Zendaya thiết kế dòng thời trang lấy cảm hứng từ những bộ trang phục cô mặc trong Shake It Up tên là The Shake It Up Dance Clothing Line by Zendaya. Bộ sưu tập bao gồm những món quần áo dành cho các cô gái năng động bao gồm vớ làm ấm chân, quần shorts, áo khoác, khăn đội đầu và phụ kiện.[59][60] Mùa hè năm 2015 hợp tác với Carmex, Zendaya thông báo sẽ ra mắt dòng thời trang tên Daya by Zendaya được ra mắt vào mùa thu năm 2016.[61][62] Dòng giày dép Sole of Daya cũng được lên kế hoạch.[63]

Năm 2014, Zendaya làm giám khảo khách mời trong một tập của Project Runway: Under the Gunn. Trong tập này, thí sinh (nhà thiết kế) được giao nhiệm vụ sáng tạo cho một bộ trang phục cho Zendaya cho màn trình diễn sắp tới.[64][65] Năm 2016, cô cũng làm giám khảo khách mời cho tập cuối của Project Runway mùa 15.

Cuộc sống riêng tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Zendaya thích hát, nhảy và thiết kế quần áo.[14] Cô cũng là người ăn chay.[66] Zendaya hiện tại đang sống ở Los Angeles, California và sở hữu căn nhà trị giá 1,4 triệu USD.[67] Cô cũng có một căn hộ ở Brooklyn.

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai Ghi chú
2013 Super Buddies Lollipop (lồng tiếng) Trực tiếp sang DVD
2017 Người Nhện: Trở về nhà Michelle "MJ" Jones-Watson
Bậc thầy của những ước mơ Anne Wheeler
2018 Ngỗng vịt phiêu lưu ký Chi (lồng tiếng)
Chân Nhỏ, bạn ở đâu? Meechee (lồng tiếng) Hậu kỳ
2019 Người Nhện: Xa nhà MJ
2021 Malcolm & Marie Marie Kiêm nhà sản xuất
Space Jam: A New Legacy Thỏ Lola (lồng tiếng)
Dune Chani
Người Nhện: Không còn nhà MJ
2022 Is That Black Enough For You?!? Chính mình Phim tài liệu
2023 Challengers Tashi Donaldson Kiêm nhà sản xuất
Dune: Part Two Chani

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai Ghi chú
2010–2013 Shake It Up Rocky Blue Vai chính (75 tập)
2011 Good Luck Charlie Tập: "Charlie Shakes It Up"
PrankStars Chính mình Tập: "Walk the Prank"
Pixie Hollow Games Fern (lồng tiếng) Phim truyền hình đặc biệt
2012 A.N.T. Farm Sequoia Jones Tập: "Creative consultANT"
Frenemies Halley Brandon Phim truyền hình
2013 Dancing with the Stars Thí sinh Á quân mùa 16
2014 Zapped Zoey Stevens Phim truyền hình
2015–2018 K.C. Undercover K.C. Cooper Vai chính kiêm đồng sản xuất[68]
2015 Black-ish Rasheida Tập: "Daddy's Day"[69]
2017 Walk the Prank Chính mình Tập: "K.C. Undercover Edition"[70]
2019 - Hiện tại Euphoria Rue Vai chính[71][72]

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng Hạng mục Đối tượng đề cử Kết quả Ct.
2011 Young Artist Award Outstanding Young Ensemble in a TV Series
(nhận cùng Bella Thorne, Davis Cleveland, Roshon Fegan, Adam Irigoyen, Kenton DutyCaroline Sunshine)
Shake It Up Đề cử [73]
2012 Young Artist Award Best Performance in a TV Series – Leading Young Actress Đề cử [74]
Young Artist Award Outstanding Young Ensemble in a TV Series
(nhận cùng Bella Thorne, Davis Cleveland, Roshon Fegan, Adam Irigoyen, Kenton DutyCaroline Sunshine)
Đề cử [74]
NAACP Image Awards Outstanding Performance in a Youth/Children's Series or Special Đề cử [75]
2013 Young Artist Awards Best Performance in a TV Movie, MiniSeries, Special or Pilot - Leading Young Actress Frenemies Đề cử [76]
Radio Disney Music Awards Best Music Video "Fashion Is My Kryptonite" Đề cử
2014 Radio Disney Music Awards Breakout Artist (Chính mình) Đề cử [77]
Best Style Đoạt giải [77]
BET Awards YoungStars Award Đề cử [78]
Teen Choice Awards Choice Music: Breakout Artist Đề cử [79]
Teen Choice Awards Candie's Style Icon Đoạt giải [79]
2015 Radio Disney Music Awards Best Style Đề cử [80]
BET Awards YoungStars Award Đề cử [81]
Teen Choice Awards Choice TV Actress: Comedy K.C. Undercover Đề cử
2016 Nickelodeon Kids' Choice Awards Favorite Female TV Star – Kids' Show Đoạt giải [82]
Radio Disney Music Awards Best Style (Chính mình) Đề cử [83]
Teen Choice Awards Choice Music: R&B/Hip-Hop Song Something New Đề cử [84]
Choice Style: Female (Chính mình) Đoạt giải [84]
2017 Nickelodeon Kids' Choice Awards Favorite Female TV Star K.C. Undercover Đoạt giải [85]
Teen Choice Awards Choice TV Actress: Comedy Đề cử [86]
Choice Summer Movie Actress Người Nhện: Trở về nhà Đoạt giải [87]
Choice Breakout Movie Star Đề cử [87]
Choice Twit (Chính mình) Đề cử [87]
Choice Style Icon Đề cử [87]
Choice Female Hottie Đề cử [87]
2018 Nickelodeon Kids' Choice Awards Favorite Female TV Star K.C. Undercover Đề cử [88]
Favorite Movie Actress Người Nhện: Trở về nhàBậc thầy của những ước mơ Đoạt giải [88]
Giải Sao Thổ Diễn viên trẻ xuất sắc nhất Người Nhện: Trở về nhà Đề cử

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Takeda, Allison (ngày 9 tháng 6 năm 2015). “Zendaya Gets to the Heart of Her Family Tree for Immigrant Heritage Month”. Us Weekly.
  2. ^ Lipshutz, Jason (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “After Selena Gomez's Exit and a Thawing 'Frozen,' Is Disney Headed for a Cold Spell?”. Billboard.
  3. ^ Phares, Heather. “Zendaya Biography”. AllMusic.com (Rovi). Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2016.
  4. ^ a b Kim, Kristen Yoonsoo (tháng 12 năm 2015). “REAL GOOD - The multitalented teenager began her career as a Disney star. But don't expect Zendaya to have a Miley moment anytime soon”. Complex magazine (Canada).
  5. ^ Takeda, Allison (ngày 9 tháng 6 năm 2015). “Zendaya Gets to the Heart of Her Family Tree for Immigrant Heritage Month”. Us Weekly.
  6. ^ Barney, Chuck (ngày 17 tháng 5 năm 2013). 'Dancing With The Stars': Zendaya Coleman has title within grasp”. Delco Times. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  7. ^ Field, Genevieve (ngày 6 tháng 2 năm 2016). “The Unstoppable Zendaya”. Glamour.
  8. ^ Cohen, Bethany (ngày 13 tháng 6 năm 2014). “Zendaya: A Rising Star”. AXS.
  9. ^ name Cover Girl Interview ngày 8 tháng 7 năm 2011 Lưu trữ 2013-11-10 tại Wayback Machine
  10. ^ “About Zendaya”. Zendaya.com. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2011.
  11. ^ “Zendaya's Flashback Friday (Video)”. Zendaya.com. ngày 27 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2016.
  12. ^ Wimbley, Jessica (ngày 31 tháng 3 năm 2013). "Dancing with the Stars": Zendaya Tops Competition at age 16”. San Diego Entertainer Magazine.
  13. ^ Sampson, Mike (March 2016). “Singer Zendaya Lands Lead Role in Marvel's 'Spider-Man' Movie”. Screen Crush.
  14. ^ a b c “Zendaya is Raquel "Rocky" Blue”. Disney Channel Medianet. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2010.
  15. ^ “Kidz Bop – 'Hot n Cold' Music Video”. KidzBop.com. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2011.
  16. ^ Zendaya Coleman Audition - Shake It Up. YouTube.
  17. ^ “Shake It Up's Debut”. TV By The Numbers. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010.
  18. ^ “Swag It Out – Single by Zendaya”. iTunes. United States. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2011.
  19. ^ Roberts, Kayleigh (ngày 14 tháng 6 năm 2011). 'From Bad To Cursed' Book Trailer Gives Us The Creeps — In A Good Way”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  20. ^ Shady, Justin (ngày 22 tháng 10 năm 2010). “Coleman & Thorne: Duo 'Shake Up' Disney”. Variety. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2011.
  21. ^ “Rising Star: Tiny Dancer”. Diablo Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2011.
  22. ^ Amy Sciarretto. “Zendaya Signs to Hollywood Records”.
  23. ^ “Zendaya Coleman Performing At The Los Angeles Sports Arena On ngày 21 tháng 10 năm 2012 To Benefit Operation Smile”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  24. ^ “Dorothy Hamill and Andy Dick among 'Dancing' stars”. New York Post. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  25. ^ Garibaldi, Christina (ngày 24 tháng 5 năm 2013). “Zendaya's 'Crying' Fans 'So Sad' About 'Dancing With The Stars' Loss”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2016.
  26. ^ “Zendaya Coleman delights in her newfound fame as she hits the talk show circuit after coming second on DWTS”. Dailymail. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2013.
  27. ^ “Dancing with the Stars' Season 16 finale: Kellie Pickler edges out Zendaya”. New York Daily News. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2013.
  28. ^ "Shake It Up" Canceled After Season 3”. Disney Dreaming. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2013.
  29. ^ 'Shake It Up' Canceled: Disney Channel Will End Zendaya And Bella Thorne's Show After Season 3”. The Huffington Post. ngày 25 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2013.
  30. ^ “Zendaya to Star In 'Zapped' Slated to Premiere on Disney Channels Around the World in 2014” (Thông cáo báo chí). Disney Channel. ngày 23 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2016 – qua TV by the Numbers.
  31. ^ Ng, Philiana (ngày 6 tháng 11 năm 2013). 'Shake It Up' Star Zendaya to Topline Disney Channel Spy Pilot (Exclusive)”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2016. Super Awesome Katy centers on 16-year-old Katy Cooper (Zendaya), an outspoken and confident technology wiz and skilled black belt, who discovers that both her parents are spies who expect her to follow in their footsteps.
  32. ^ Ng, Philiana (ngày 8 tháng 5 năm 2014). “Disney Channel Orders Zendaya's 'K.C. Undercover' to Series”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2016. The cable network has given a series order to spy comedy K.C. Undercover (previously Super Awesome Katy), starring the Shake It Up alum.
  33. ^ Aguirre, Abby (ngày 15 tháng 6 năm 2017). “Zendaya Talks Spider-Man, Her First Love, and Reinventing Disney Stardom”. Vogue. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2017. ...She objected to the show’s title, which at the time was Super Awesome Katy... She then rejected her character’s name... and insisted that the show feature a family of color.
  34. ^ “New Series 'K.C. Undercover' Starring Zendaya to Premiere Sunday, January 18 on Disney Channel” (Thông cáo báo chí). Disney Channel. ngày 11 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2016 – qua TV by the Numbers.
  35. ^ Mitovich, Matt Webb (ngày 15 tháng 5 năm 2015). “Disney's K.C. Undercover Renewed for Season 2 — Watch a Wild New Trailer”. TVLine. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2016.
  36. ^ “It Looks Like Zendaya Is Working With Timbaland On Her Sophomore Album”. ngày 6 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2015.
  37. ^ “Zendaya Is Ready For Her 'Close Up' In New High-Fashion Music Vid”. ngày 12 tháng 11 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2016.
  38. ^ “Zendaya F/Chris Brown 'Something New'. Republic. ngày 25 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2016.
  39. ^ Jung, E. Alex (ngày 28 tháng 2 năm 2015). “Kelly Osbourne Reportedly Quits Fashion Police Over Giuliana Rancic's Zendaya Jokes”. Vulture. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2015.
  40. ^ Spector, Nicole (ngày 29 tháng 9 năm 2015). “Zendaya's Barbie”. Today. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2017.
  41. ^ Fleming Jr., Mike (ngày 7 tháng 3 năm 2016). “Zendaya Lands A Lead In Spider-Man Reboot At Sony And Marvel Studios”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2016.
  42. ^ Fuster, Jeremy (ngày 11 tháng 7 năm 2017). “Homecoming's Box Office”. The Wrap. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2017.
  43. ^ “Watch Bruno Mars' Transfixing 'Versace on the Floor' Video With Zendaya”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2018.
  44. ^ “Greatest Showman Review”. Variety. ngày 25 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2017.
  45. ^ McNary, Dave (ngày 13 tháng 11 năm 2017). “Zendaya to Star in, Produce Movie About First African-American Woman to Graduate From Vassar”. Variety. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2017.
  46. ^ “Jake Gyllenhaal, Ansel Elgort, Zendaya to Star in Crime Drama 'Finest Kind'.
  47. ^ Jake Gyllenhaal Eyed for Villain Role in ‘Spider-Man: Homecoming’ Sequel
  48. ^ “Zendaya to Star in HBO's 'Euphoria' Pilot”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2018.
  49. ^ Dinh, James (ngày 21 tháng 11 năm 2012). “Britney Spears And will.i.am's 'Scream And Shout' Video To Premiere On 'X Factor'. MTV News. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2012.
  50. ^ Kim, Isabella (ngày 2 tháng 2 năm 2014). “X Out”. Hollywood Life. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2017.
  51. ^ Street, Mikelle; Strasburger, Chantal (ngày 20 tháng 6 năm 2014). “Zendaya Is the New Face of Material Girl—Here's What She Has to Say About It”. Teen Vogue. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2017.
  52. ^ Gaynor, Emily (ngày 21 tháng 1 năm 2016). “Zendaya Just Announced That She's the New Face of Covergirl”. Teen Vogue. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2017.
  53. ^ Oliver, Dana (ngày 24 tháng 2 năm 2016). “Zendaya's New Chi Ads Prove She Doesn't Care What You Think Of Her Hair”. Huffington Post. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2017.
  54. ^ a b “Zendaya Celebrates 20th Birthday by Raising Money for Convoy of Hope Initiative”. Broadway World. ngày 1 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2017.
  55. ^ “Zendaya's song benefits Convoy of Hope”. Convoy of Hope. ngày 20 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2017.
  56. ^ “Disney Star Zendaya Celebrates 18th Birthday By Raising Funds to Feed Hungry Children”. PR News Wire (Thông cáo báo chí). SPRINGFIELD, Mo: Convoy of Hope. ngày 22 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2017.
  57. ^ “Between U and Me: How to Rock Your Tween Years with Style and Confidence”. Amazon. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2013.
  58. ^ “Zendaya Coleman's Book "Between U And Me" Arrives ngày 6 tháng 8 năm 2013”. Disney Dreaming. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2013.
  59. ^ “CeCe And Rocky "Shake It Up" D-Signed Collection At Target”. Disney Dreaming. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2013.
  60. ^ "Shake It Up" Dance Clothing Line”. Zendaya.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2013.
  61. ^ “daya by zendaya”. www.nordstrom.com. Nordstrom. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2016.
  62. ^ “Zendaya Wants Your Shoes to Feel Luxurious, Even if You Can't Afford Louboutins”. www.instyle.com. instyle. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2016.
  63. ^ Kinonen, Sarah (ngày 6 tháng 8 năm 2015). “Sole of Daya”. People Style. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2017.
  64. ^ Kiesewetter, John (ngày 14 tháng 2 năm 2014). “Asha Daniels wins $5,000 on 'Under the Gunn'. Cincinnati.com. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2016.
  65. ^ Rieselman, Deborah. “DAAP grad designs winning fashions while 'Under the Gunn'. University of Cincinnati. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2016.
  66. ^ Loria, Joe (ngày 13 tháng 12 năm 2016). “Zendaya goes Vegetarian”. Mercy for Animals. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2017.
  67. ^ Halberg, Morgan (ngày 30 tháng 3 năm 2017). “Zendaya's New Home”. Observer. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2017.
  68. ^ Wagmeister, Elizabeth (ngày 1 tháng 11 năm 2016). “Zendaya's Disney Channel Show 'K.C. Undercover' Renewed for Season 3”. Variety. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2017.
  69. ^ “Zendaya on 'Black-ish'. ABC. ngày 15 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2017.
  70. ^ 'Walk The Prank' Season 2: First Look At Zendaya's Guest Spot”. Hollywood Life. ngày 13 tháng 3 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  71. ^ “Zendaya to Star in HBO's 'Euphoria' Pilot”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2018.
  72. ^ Otterson, Joe (ngày 5 tháng 6 năm 2018). “Zendaya Set for Lead Role in HBO Pilot 'Euphoria,' 11 Others Cast”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2018.
  73. ^ “32nd Annual Young Artist Awards”. Young Artist Awards. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2018.
  74. ^ a b “33rd Annual Young Artist Awards”. Young Artist Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2012.
  75. ^ “Zendaya At The 2012 NAACP Image Awards”. Zendaya.com. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2012.
  76. ^ “34th Annual Young Artist Awards”. Young Artist Awards. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2018.
  77. ^ a b bperkins400; bperkins400 (ngày 27 tháng 4 năm 2014). “2014 Radio Disney Music Award Winners — Full List: Selena Gomez & More”.
  78. ^ “BET Awards 2014 Winners & Nominees”.
  79. ^ a b “Teen Choice Awards: The Complete Winners List”.
  80. ^ “Announcing the 2015 Radio Disney Music Awards Winners - Disney Playlist”. ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  81. ^ “BET Awards Winners: Full List”. Variety. ngày 28 tháng 6 năm 2015.
  82. ^ “Zendaya Wins Favorite Female TV Star -- Kids Show at the Kids' Choice Awards 2016”.
  83. ^ “2016 Radio Disney Music Awards: See the Full List of Winners”.
  84. ^ a b “2016 Teen Choice Awards: Winners List”.
  85. ^ “Kids' Choice Awards: The Winners List”. The Hollywood Reporter. ngày 11 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2017.
  86. ^ Ceron, Ella (ngày 19 tháng 6 năm 2017). “Teen Choice Awards 2017: See the First Wave of Nominations”. Teen Vogue. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2017.
  87. ^ a b c d e Vulpo, Mike (ngày 12 tháng 7 năm 2017). “Teen Choice Awards 2017 Reveal "Second Wave" of Nominations”. E! Online. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.
  88. ^ a b “NICKELODEON ANNOUNCES 2018 KIDS' CHOICE AWARDS NOMINATIONS”. Nick.com. Viacom Entertaining Group. ngày 26 tháng 2 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “allmusic” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]