[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Jennifer Lawrence

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Jennifer Lawrence
Lawrence năm 2016
SinhJennifer Shrader Lawrence
15 tháng 8, 1990 (34 tuổi)
Indian Hills, Kentucky, Mỹ
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động2006–nay
Phối ngẫuCooke Maroney (cưới 2019)
Chữ ký

Jennifer Shrader Lawrence (sinh ngày 15 tháng 8 năm 1990) là một nữ diễn viên điện ảnh người Mỹ. Vai diễn đầu tiên của cô là một trong những nhân vật chính của loạt phim truyền hình The Bill Engvall Show (2007–2009) phát trên kênh TBS. Từ đó trở về sau cô xuất hiện trong các bộ phim độc lập như The Burning Plain (2008) và Winter's Bone (2010) - bộ phim đã mang lại cho Jennifer Lawrence đề cử giải Oscar đầu tiên trong sự nghiệp ở hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất vào năm 2011 khi vừa mới tròn 20 tuổi, giúp cô lập kỷ lục khi trở thành người trẻ tuổi thứ hai được đề cử ở hạng mục này tại thời điểm đó.

Năm 22 tuổi, qua bộ phim Silver Linings Playbook (2012), Lawrence vào vai Tiffany Maxwell - một phụ nữ trưởng thành nghiện tình dục với nhiều diễn biến tâm lý phức tạp đã mang về cho cô giải Quả cầu vàng cùng một tượng vàng Oscar đầu tiên, giúp cô trở thành diễn viên trẻ nhất từng hai lần được đề cử giải Oscar cho hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất và là người trẻ tuổi thứ hai trong lịch sử giành được giải thưởng danh giá này.[1] Đến năm 2013, thành công tiếp tục đến với cô gái trẻ, với vai Rosalyn Rosenfeld - cô vợ của một tay lừa đảo thiên tài chuyên thực hiện các phi vụ có liên quan đến những tác phẩm nghệ thuật trong bộ phim hài của đạo diễn David O. Russell - American Hustle (2013) lại tiếp tục giúp cô mang về giải Quả cầu vàng, giải BAFTA và nhận được đề cử giải Oscar thứ ba trong sự nghiệp ở hạng mục Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất.[2][3][4][5]

Jennifer Lawrence cũng được biết đến nhiều hơn khi vào vai dị nhân Raven Darkhölme / Mystique qua bộ phim ăn khách X-Men: First Class (2011) và sau đó là X-Men: Days of Future Past (2014). Năm 2012, cô trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới nhờ vai diễn Katniss Everdeen trong The Hunger Games - bộ phim chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên bán chạy nhất của nhà văn Suzanne Collins. Vai diễn được các nhà phê bình khen ngợi nhiệt liệt, The Hunger Games nằm ở vị trí thứ 3 trong danh sách những bộ phim có doanh thu phòng vé mở màn cao nhất mọi thời đại,[6] giúp Lawrence phá vỡ thế độc tôn của hình tượng các nam anh hùng trong phim hành động Hollywood khi trở thành Nữ anh hùng màn ảnh mang lại doanh thu cao nhất mọi thời đại.[7][8]

Đến thời điểm hiện tại, sở hữu vẻ đẹp hài hòa, tài năng, hàng loạt những vai diễn thành công của Jennifer Lawrence ở cả hai lĩnh vực thương mại và nghệ thuật, cùng với một ngai vàng vững chắc ở tuổi 23 khi liên tiếp mang về rất nhiều giải thưởng danh giá đã khiến tạp chí Rolling Stone gọi cô là "Nữ diễn viên trẻ tài năng nhất nước Mỹ."[9] Năm 2013, tạp chí Time đã đưa tên cô vào danh sách 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới.[10] Vào năm 2014, Jennifer Lawrence tiếp tục vượt mặt rất nhiều ngôi sao nổi tiếng khác để đứng đầu hạng mục Nữ diễn viên quyền lực nhất Hollywood và xếp vị trí thứ 12 trong danh sách "Celebrity 100" (100 người nổi tiếng) được thống kê hàng năm của công ty truyền thông và xuất bản Hoa Kỳ - Forbes.[11] Bên cạnh đó, cô còn được tạp chí danh tiếng dành cho phái mạnh của Vương Quốc Anh - FHM vinh danh là Mỹ nhân quyến rũ nhất thế giới năm 2014.[12] Ngoài ra, Jennifer còn được biết đến với biểu cảm chân thực từ trong phim cho đến ngoài đời thực.

Tiểu sử và Sự nghiệp diễn xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

1990–2005: Những năm tháng tuổi thơ

[sửa | sửa mã nguồn]

Jennifer Shrader Lawrence sinh ra và lớn lên tại Louisville, Kentucky trong một gia đình không có thiên hướng về nghệ thuật, là cô con gái của ông Gary Lawrence - một công nhân xây dựng và bà Karen Lawrence (nhũ danh Koch) - giám đốc điều hành trại trẻ em. Cô có hai người anh trai là Ben và Blaine.[13][14][15][16] Năm 14 tuổi, vì quyết định muốn theo đuổi sự nghiệp diễn xuất nên Lawrence đã thuyết phục bố mẹ đưa cô đến New York và tìm cho mình một người đại diện tài năng nhưng không nhận được sự đồng ý. Do họ chỉ cho phép theo đuổi nghệ thuật một khi đã tốt nghiệp trung học, và để chứng minh rằng nghề nghiệp sẽ không ảnh hưởng gì tới việc học hành, cô đã đăng ký theo học trường trung học cấp hai Kammerer tại Louisville. Với việc nỗ lực học tập để theo đuổi ước mơ, cô đã hoàn thành chương trình bậc phổ thông sớm hơn các bạn cùng trang lứa hai năm với điểm số gần như đạt tuyệt đối trong kì thi GPA là 3.9 (điểm tối đa là 4).[14][17] Trong khoảng thời gian lớn lên và tận hưởng hương vị ngọt ngào ở tuổi niên thiếu, Lawrence làm trợ lý y tá tại trại hè trẻ em dưới sự điều hành của mẹ.[18]

2006–2009: Khởi nghiệp và thành công bước đầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Lawrence chưa từng học và đào tạo qua một trường lớp diễn xuất và cũng chẳng có chút kinh nghiệm nào trong nghiệp diễn.[19] Những thành công nho nhỏ ban đầu của Jennifer Lawrence không phải tới từ điện ảnh mà từ lĩnh vực truyền hình, nơi cô được nhận vào vai Lauren Pearson trong một loạt phim sitcom có tên là The Bill Engvall Show được sáng lập bởi Bill EngvallMichael Leeson.[20] Loạt phim bắt đầu lên sóng vào tháng 9 năm 2007, trải qua ba mùa phim đến khi bị hoãn lại vào năm 2009.[21] Ngay từ những ngày đầu tiên này, tài năng của Lawrence đã được khẳng định khi cô nhận được giải thưởng Diễn viên trẻ nổi bật ở thể loại phim truyền hình và được đề cử ở hạng mục Màn trình diễn xuất sắc nhất trong một series truyền hình (phim hoặc hài kịch) tại lễ trao giải Young Artist Award vào năm 2009.[22][23] Cũng trong giai đoạn này, Lawrence còn tham gia một số vai phụ trong những dự án phim truyền hình như Cold Case, MediumMonk.[24]

Năm 2007, cô tham gia thử vai diễn Bella Swan trong bộ phim ăn khách Twilight nhưng cuối cùng vai diễn thuộc về nữ diễn viên cùng trang lứa với cô - Kristen Stewart. Sau này Lawrence nói rằng cô rất mừng là mình không được nhận vai vì sự chú ý quá lớn của giới truyền thông dành cho Stewart từ khi cô ấy nổi tiếng với vai diễn trên.[25][26] Đến năm tiếp theo, cô tiếp tục tham gia vào các vai diễn nhỏ trong phim Garden Party của đạo diễn Jason Freeland và góp mặt trong The Burning Plain của đạo diễn Guillermo Arriaga bên cạnh hai đàn chị từng đoạt giải Oscar là Charlize TheronKim Basinger. Vai diễn đã đem về cho cô giải Diễn viên trẻ triển vọng tại Liên hoan phim Venezia năm 2008, đây chính là bước đệm cho con đường thành công của cô sau này.[27] Cùng năm đó, cô đóng vai chính trong bộ phim đầu tay của đạo diễn Lori Petty - The Poker House cùng Selma BlairChloë Grace Moretz. Với vai Agnes, một cô gái trẻ tuổi là nạn nhân của việc bị lạm dụng và cưỡng hiếp dã man đã đem về cho cô giải thưởng Liên hoan phim Los Angeles ở hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.[28] Đồng thời cô cũng xuất hiện trong video âm nhạc The Mess I Made nằm trong album Losing Sleep của nhóm nhạc Parachute.[29]

2010–2012: Bước ngoặt đột phá

[sửa | sửa mã nguồn]
Lawrence tại buổi lễ trao giải Oscar lần thứ 83

Qua Winter's Bone của đạo diễn Debra Granik (từng được công chiếu tại Việt Nam với cái tên Xương Trắng) - tác phẩm điện ảnh gai góc về đề tài tình máu mủ và nghị lực con người trước số phận đau thương được các nhà phê bình khen ngợi và đánh giá cao, Jennifer Lawrence vào vai cô bé Ree Dolly 17 tuổi đang trên đường tìm kiếm tung tích của cha mình - người đã mang thế chấp chính ngôi nhà của gia đình và rồi biến mất. Nếu thất bại, Ree cùng với người mẹ mắc bệnh tâm thần và hai đứa em nhỏ sẽ bị trục xuất vào cánh rừng Ozark. Mạo hiểm cả cuộc sống của mình, Ree tìm mọi cách vượt lên trên sự dối trá, những bí mật bị giấu kín và mọi nguy hiểm tới từ chính các đối tượng có quan hệ ruột thịt, nhờ vậy mới tìm ra sự thật đau thương vào phút cuối cùng.[30] Bộ phim giành được giải Phim hay nhất tại Liên hoan phim Sundance, Ree Dolly được xem là vai diễn đột phá trong sự nghiệp của Lawrence[31] khi đem đến cho cô đề cử giải Oscar đầu tiên với hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất vào năm cô chỉ mới 20 tuổi và trở thành diễn viên trẻ thứ ba trong lịch sử Oscar được đề cử ở hạng mục này.[32] Trên tờ The New Yorker, David Denby viết: "không thể tưởng tượng nổi bộ phim sẽ ra sao nếu không có sự góp mặt của cô bé Ree."[33] Peter Travers trên tờ Rolling Stone đánh giá cao Jennifer và viết: "Vai diễn của cô còn hơn cả diễn xuất nữa. Nó như một cơn bão mạnh kéo đến. Đôi mắt của Lawrence phản ánh chân thực những điều luôn giằng xé trong tâm can của Ree.".[34] Ngoài giải Oscar, cô còn nhận được đề cử giải Quả Cầu Vàng, giải thưởng của Hội Diễn viên Điện ảnh, Tinh Thần Độc Lập cùng với giải Ủy ban Quốc gia về Phê bình Điện ảnh dành cho màn trình diễn đột phá xuất sắc nhất với vai diễn này.[35] Cô cũng tham gia vào bộ phim độc lập Like Crazy được công chiếu tại Liên hoan phim Sundance vào năm 2011.[36]

Sau khi được đề cử giải Oscar, Jennifer Lawrence trở thành một cái tên được các nhà làm phim săn đón và cô chọn lựa dự án tham gia cũng rất kĩ càng. Lawrence vào vai dị nhân phản diện có khả năng biến dạng Mystique thời trẻ trong tác phẩm hành động X-Men: First Class, một prequel (phần trước) của loạt phim siêu anh hùng X-Men bên cạnh hai nam diễn viên tài năng James McAvoyMichael Fassbender.[37] Vai Mystique của Lawrence là phiên bản thời trẻ của nhân vật do Rebecca Romijn đóng trong những tập phim X-Men trước[38] Đây chính là bộ phim bom tấn đầu tiên trong sự nghiệp của Jennifer Lawrence và cô đã đảm nhiệm rất tốt vai trò diễn viên phụ của mình, trước khi nổi bật hẳn lên trong các ấn phẩm phim thương mại sau này. Đến năm 2011, Lawrence xuất hiện trong The Beaver, một bộ phim hài quy tụ hai diễn viên nổi tiếng từng đoạt giải Oscar là Jodie FosterMel Gibson. Bộ phim quay vào năm 2009 nhưng lại bị trì hoãn một thời gian dài do tranh cãi và cuối cùng được công chiếu vào ngày 6 tháng 5 năm 2011.[39] Đến tháng 6 năm 2011, cô được mời vào Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh (hay còn gọi là Tổ chức sáng lập ra giải Oscar).[40]

Lawrence tại Liên hoan phim quốc tế Toronto vào năm 2012.

Dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên rất ăn khách của nhà văn Suzanne Collins, The Hunger Games có bối cảnh tại một thế giới cận diệt vong có tên Panem, nơi mà hàng năm các quận trực thuộc đều phải cống hiến hai thanh niên tham gia trò chơi đẫm máu mà những kẻ cầm quyền đặt ra. Lawrence vào vai cô gái Katniss Everdeen, người dũng cảm nhận làm vật hi sinh thay cho em gái để cùng người bạn đồng trang lứa Peeta tham gia đấu trường, nơi họ sẽ phải tàn sát với những thanh, thiếu niên khác cho tới khi chỉ còn một người duy nhất sót lại... Dù là một người hâm mộ của bộ sách, Jennifer Lawrence đã phải mất đến ba ngày mới đồng ý nhận vai Katniss vì nhận thấy đây là một dự án lớn, nó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến danh tiếng của cô.[41][42] Để đảm nhận thành công nhiệm vụ của mình, Jennifer đã phải lao vào luyện tập nhiều bộ môn để có thể trạng phù hợp với vai diễn, bao gồm đào tạo diễn viên đóng thế, tham gia các khóa huấn luyện thể hình, sử dụng vũ khí, bắn cung, học cách trèo cây, chiến đấu, Parkour, Pilates, yoga và tự mình lột da một con sóc với đôi bàn tay máu me đáng sợ mà không cần bất cứ một kỹ thuật hỗ trợ nào.[43][44] Bộ phim được công chiếu vào ngày 23 tháng 3 năm 2012, đạt doanh thu ở vị trí thứ ba trong danh sách các phim có màn ra mắt ấn tượng nhất lịch sử phòng vé khi thu về đến 152.5 triệu đô la Mỹ chỉ trong vòng ba ngày, lập kỉ lục với một bộ phim non-sequel (không phải phần tiếp theo).[45] Việc The Hunger Games thành công rực rỡ về doanh thu phòng vé đã làm thay đổi mạnh mẽ dòng phim hành động vì trong bối cảnh lịch sử điện ảnh, "Tốp 200 phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại (350 triệu đô trở lên), chưa từng có một bộ phim nào xoay quanh một ngôi sao hành động là nữ" và lần đầu tiên trong lịch sử, Lawrence đã phá vỡ quy tắc này.[6] Tạp chí Forbes viết: "Không ai từng xem phim này mà có thể nghi ngờ về trình độ nhập vai phim hành động của Jennifer Lawrence.[46]" Tuy bộ phim phần lớn đều nhận được phản hồi tích cực từ giới phê bình, vai diễn của Lawrence mới thực sự nổi bật và nhận được nhiều đánh giá cao nhất, Todd McCarthy từ tờ The Hollywood Reporter nói cô hoàn toàn có thể hóa thân vào vai Katniss "giống như đúc những gì mà mọi người tưởng tượng về Katniss" và "nắm giữ" hoàn toàn bộ phim "với vai diễn có sức nặng và sự thông minh đáng nể."[47] Kenneth Turan từ thời báo Los Angeles Times đánh giá: "Lawrence là nữ diễn viên xuất sắc nhất có thể đảm nhận vai Katniss và là chiếc chìa khóa quan trọng trong việc đưa 'Hunger Games' trở thành hiện tượng giải trí phổ biến toàn cầu. Chính diễn xuất của Lawrence đã khiến phim có sức nặng và thu hút người xem từ đầu đến cuối như vậy."[48] Nhà phê bình phim khó tính Roger Ebert của tờ Chicago Sun-Times cũng đồng ý rằng "Lawrence có lối diễn xuất thuyết phục và ấn tượng, rất mạnh mẽ, rất phù hợp để vào các vai diễn chính."[49] Đến tuần cuối công chiếu, The Hunger Games thành công vang dội với hơn 691 triệu đô la Mỹ doanh thu phòng vé trên toàn thế giới,[50] vượt xa mức kinh phí khiêm tốn 78 triệu đô bỏ ra ban đầu,[51] tạo nên một cơn sốt toàn cầu thậm chí hơn hẳn Twilight vào năm 2008. Đồng thời The Hunger Games còn trở thành phim có doanh thu cao thứ ba tại thị trường Mỹ và đứng vị trí thứ 9 trong danh sách những bộ phim có doanh thu cao nhất thế giới năm 2012.[50]

Vào tháng 10 năm 2012, Lawrence giữ vai trò là gương mặt đại diện cho Dior - một công ty thời thang cao cấp.[52] Đến tháng sau, cô được nhận vào vai góa phụ Tiffany Maxwell cùng với Bradley CooperRobert De Niro trong phim tình cảm hài Silver Linings Playbook của đạo diễn David O. Russell, bộ phim chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Matthew Quick. Cô nhận được vô số lời khen ngợi từ giới phê bình, Richard Corliss của tờ Time viết: "Lý do để ở lại trong rạp chiếu chính là Lawrence. Mới chỉ 21 tuổi khi bộ phim bắt đầu bấm máy, vậy mà Lawrence đã có thể tự trưởng thành cùng vai diễn. Ủ rũ nhưng cũng quyến rũ, cô thổi vào bất cứ vai diễn nào một sự thông minh đầy trưởng thành. Cô chính là tia sáng trong bộ phim bình dị này."[53] Nhà báo Peter Travers của Rolling Stone viết "Ở Lawrence chính là điều kỳ diệu. Cô rất thô lỗ, trụy lạc, hài hước, không ngại chửi thề, cẩu thả, quyến rũ, sôi nổi, dễ bị tổn thương. Đôi lúc trong cùng một cảnh quay, thậm chí trong cùng một nhịp thở, không một danh sách ứng cử viên cho Nữ diễn viên chính Oscar nào có thể hoàn thiện mà thiếu đi Jennifer Lawrence nằm trong tốp dẫn đầu. Cô ấy thật sự tỏa sáng trên màn ảnh."[54] Tất cả những điều đó đã giúp Jennifer giành chiến thắng giải Oscar đầu tiên trong sự nghiệp cũng với hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Danh vọng, thành công đến rất nhanh khi Jennifer chỉ mới 22 tuổi, điều đó khiến cô gái trẻ xúc động đến luống cuống vấp ngã khi lên nhận giải.[55][56][57] Jennifer cũng tham gia góp mặt trong bộ phim kinh dị House at the End of the Street[58] cùng Max ThieriotElisabeth Shue được phát hành vào tháng 9 năm 2012.[59] Bên cạnh đó, cô cũng được tuyển vào vai "O" trong bộ phim Savages của đạo diễn Oliver Stone nhưng đành phải bỏ dự án vì vướng lịch làm việc.[60]

2013–nay

[sửa | sửa mã nguồn]
Lawrence tại lễ trao giải Quả cầu vàng lần thứ 70 vào năm 2013.

The Hunger Games: Catching Fire - phần tiếp theo nằm trong loạt phim hàng động, viễn tưởng Hunger Games được khởi chiếu trên toàn thế giới vào ngày 22 tháng 11 năm 2013.[61] Trong tập phim thứ hai được kỳ vọng rất cao này, một sự kiện chưa từng có tiền lệ - cả Katniss lẫn Peeta cùng bước ra từ đấu trường như hai người trẻ yêu nhau đến sống chết sau khi đã trải qua cuộc chiến gian khổ - đã đặt Tổng thống Snow đối diện với một biểu tượng mới mang lại niềm hi vọng và sức mạnh cho quần chúng, bùng lên thành ngọn lửa cách mạng có nguy cơ lan rộng. Cái nhìn về Snow không còn thuần túy toát lên vẻ nguy hiểm trầm tĩnh ở phần đầu, mà đã thoáng thấy nỗi sợ hãi và sự hoài nghi ẩn giấu. Để giải quyết tình thế này, buộc Snow từ chỗ mong muốn vô hiệu hóa Katniss như một biểu tượng nổi loạn bằng thủ đoạn vẽ vời cô như một biểu tượng của lòng trung thành, đi đến biện pháp mở ra kỳ đấu trường khủng khiếp nhất trong lịch sử vương quốc Panem... Bộ phim trở thành một thành công thương mại lớn và nhận được rất nhiều đánh giá cao từ các nhà phê bình phim. Stephanie Zacharek của thời báo The Village Voice nhận xét Lawrence đang "trong quá trình thổi nên một ngọn lửa bùng cháy mạnh mẽ, chỉ riêng điều đó cũng khiến đây là một bộ phim thật tuyệt vời để xem."[62] Trang Rotten Tomatoes thống kê có tới 89% bài viết của các nhà phê bình nhận xét tích cực về bộ phim, trong khi khán giả và người hâm mộ đã xem cũng cho phim điểm A. Phần lớn lời khen ngợi dành cho vai diễn Katniss Everdeen của Jennifer Lawrence.[63] The Hunger Games: Catching Fire chính là bộ phim khoa học hành động - viễn tưởng được đánh giá cao nhất trong năm trên trang mạng này.[64] Đến tháng 1 năm 2014, Catching Fire đã vượt qua cả Iron Man 3 để chiếm lĩnh vị trí là bộ phim cho thu nhập phòng vé cao nhất năm 2013 ở Bắc Mỹ với hơn 409.4 triệu đô la Mỹ.[65] Trên thế giới, Catching Fire tiếp tục lọt vào danh sách các bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại ở vị trí thứ 36 với hơn 864 triệu đô la Mỹ,[66] là bộ phim có doanh thu cao nhất nằm trong loạt phim Đấu trường sinh tử tính đến thời điểm hiện tại, là phim cho doanh thu cao nhất được phân phối bởi xưởng phim Lionsgate và đồng thời là phim có doanh thu cao thứ 5 nằm trong danh sách những bộ phim có doanh thu cao nhất thế giới năm 2013.[67]

Cũng trong năm 2013, Lawrence tiếp tục được vị đạo diễn David O. Russell mời đóng vai phụ trong bộ phim tiếp theo của ông về đề tài tội phạm lừa đảo của Mỹ - American Hustle. Đây cũng chính là tác phẩm đánh dấu sự tái ngộ của đạo diễn Russell với cặp đôi Bradley Cooper và Jennifer Lawrence. Việc tham gia American Hustle được coi như là sự tri ân của Lawrence dành cho vị đạo diễn đã mang về cho cô một giải Oscar trong đời. Nội dung phim là một chuỗi câu chuyện có phần kịch tính và phức tạp về thế giới ngầm đầy mưu mô, tính toán và quyền lực của xã hội Mỹ những năm 1970-1980. Phim được thực hiện dựa trên một chiến dịch có thật của FBI có tên là ABSCAM. Irving Rosenfeld, có vợ là Rosalyn Rosenfeld (do Jennifer Lawrence thủ vai), là một tay lừa đảo thiên tài chuyên thực hiện các phi vụ có liên quan đến những tác phẩm nghệ thuật bị đánh cắp. Chính "tài năng" của hắn đã làm cho Richie DiMaso - một đặc vụ FBI phải chú ý. Irving và cô nhân tình Sydney của hắn buộc lòng phải cấu kết với tay FBI lộng quyền đó, bước vào thế giới của những tay trùm chứng khoán và xã hội đen khác nhằm ra tay triệt tiêu những thế lực xấu. Bên cạnh câu chuyện của những kẻ âm thầm đó là một câu chuyện khác gắn kết và đan xen về ngài thị trưởng Carmine Polito, người luôn cố gắng hỗ trợ cộng đồng của mình chống chọi với cuộc khủng hoảng kinh tế và những biến động của thời đại... American Hustle quy tụ dàn diễn viên từng được đề cử và giành giải Oscar như Bradley Cooper, Amy Adams, Christian Bale, Jeremy Renner và được công chiếu vào ngày 20 tháng 12 năm 2013,[68] đồng thời đây cũng chính là bộ phim dẫn đầu về số đề cử giải Oscar lần thứ 86 (với 10 đề cử).[69] Vai diễn Rosalyn Rosenfeld của Lawrence được các nhà phê bình phim khen ngợi và đánh giá cao.[70] Cô nhận được đề cử ở hạng mục Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất tại hai giải thưởng quan trọng tiền Oscar là giải của Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnhgiải Hiệp hội Phê bình Phim Phát sóng.[4][5] Vào ngày 12 tháng 1 năm 2014, Jennifer Lawrence giành được giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất,[71] cô cũng nhận được giải BAFTA đầu tiên trong sự nghiệp ở cùng hạng mục và tiếp tục nhận được đề cử giải Oscar thứ 3,[3][72] giúp cô lập kỷ lục trở thành nữ diễn viên trẻ tuổi nhất trong lịch sử giải Oscar khi sở hữu dến ba đề cử ở tuổi 23.[73]

Lawrence thế chỗ nữ diễn viên Angelina Jolie trong phim lấy bối cảnh thời đại suy thoái của nữ đạo diễn Susanne Bier - Serena, bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Ron Rash.[74][75] Cô đóng vai Serena, một phụ nữ sau khi biết mình không thể sinh con đã lên kế hoạch sát hại người đàn bà hạ sinh đứa con trai ngoài giá thú của chồng mình trước cuộc hôn nhân. Việc quay phim được hoàn thành trong năm 2012 và bộ phim dự kiến sẽ được phát hành vào năm 2014.[76] Cũng trong năm 2014, Lawrence tiếp tục đảm nhận vai dị nhân Mystique trong bộ phim X-Men: Days of Future Past cùng với hai nam diễn viên James McAvoyMichael Fassbender, đồng thời cô cũng sẽ trở lại vai Katniss Everdeen nằm trong hai bộ phim chuyển thể của cuốn sách Hunger Games cuối cùng, Mockingjay. Phần đầu tiên của bộ phim dự kiến sẽ được phát hành vào ngày 21 tháng 11 năm 2014 và phần 2 dự kiến công chiếu vào ngày 20 tháng 11 năm 2015.[77]

Trên phương tiện truyền thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Những thành công lớn trong cả doanh thu và giải thưởng khiến Lawrence được tờ tạp chí Rolling Stone tôn vinh là "Nữ diễn viên trẻ tài năng nhất nước Mỹ"[78] Năm 2013, tạp chí Time đưa tên cô vào danh sách 100 người có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế giới,[79] trong khi đó, tạp chí Elle gọi Lawrence là người phụ nữ quyền lực nhất trong ngành công nghiệp giải trí Hollywood năm 2013,[80] Ngoài ra, Jennifer Lawrence còn giành vị trí số một trong danh sách Tốp 99 người phụ nữ được khát khao nhất thế giới năm 2013, theo bình chọn của tờ tạp chí dành cho nam giới - AskMen phiên bản trực tuyến.[81] Vào tháng 6 trong cùng năm, Lawrence tiếp tục được tạp chí Forbes vinh danh là một trong những nhân vật nổi tiếng quyền lực nhất thế giới khi xếp ở vị trí thứ 49. Lawrence cũng là nữ diễn viên có thu nhập cao thứ nhì tại Hollywood, kiếm được trên 26 triệu đô la Mỹ so với năm trước, chỉ đứng sau nữ diễn viên Angelina Jolie.[82]

Đến năm 2014, Jennifer Lawrence được tạp chí dành cho nam giới - FHM xếp vị trí đầu bảng trong danh sách 100 người phụ nữ quyến rũ nhất thế giới.[12] Trong cùng năm, Jennifer Lawrence chính thức trở thành Nữ diễn viên quyền lực nhất Hollywood do tạp chí Forbes danh tiếng công bố và xếp ở vị trí thứ 12 trong danh sách Celebrity 100 - 100 người nổi tiếng quyền lực nhất thế giới năm 2014.[11] Vào tháng 8 năm 2014, Lawrence là nữ diễn viên thứ hai có thu nhập cao nhất ở Hollywood, đứng sau nữ diễn viên từng giành giải Oscar Sandra Bullock, đồng thời cô cũng là nữ diễn viên trẻ nhất nằm trong danh sách 10 nữ diễn viên kiếm bộn tiền nhất năm 2014.[83]

Donald Sutherland so sánh Lawrence với nam diễn viên tài năng Laurence Olivier nổi tiếng trong thế kỷ trước và gọi cô là một "diễn viên sở hữu sự tinh tế và tài giỏi vượt bậc."[84] Đạo diễn David O. Russell cũng ca ngợi lối diễn xuất và sự nỗ lực của Jennifer Lawrence vì cô luôn làm cho màn trình diễn của mình trông thật đơn giản nhưng không kém phần sắc sảo.[85] Trong một buổi phỏng vấn với tạp chí Daily News, Russell đã chạm vào một chủ đề nhạy cảm khi nói về việc Jennifer Lawrence bị nhà sản xuất của loạt phim Hunger Games vắt kiệt sức khi phải làm việc cho sê-ri phim này như một nô lệ. Cụ thể, Lawrence bị buộc phải theo đoàn phim The Hunger Games: Catching Fire đi quảng bá tạo tiếng vanh cho bộ phim khắp nơi trong suốt nửa cuối năm 2013. Và trong khoảng thời gian đó, cô vẫn đang bận rộn với bộ phim American Hustle. Vị đạo diễn phát biểu: "Cá nhân tôi nghĩ rằng họ nên cho cô ấy một chút thời gian để thở. Họ gần như chỉ chú trọng vào việc in tiền. Thật may, Jennifer Lawrence là một người rất năng động và cô ấy gần như không thể hiện sự mệt mỏi ra bên ngoài".[86]

Lawrence chưa bao giờ tham gia vào lớp kịch sân khấu và cũng chưa từng được đào tạo qua các lớp học diễn xuất.[14] Nữ diễn viên chia sẻ về bí mật thành công của mình: "Tôi luôn để ý nghiên cứu những người xung quanh và thấy rất thú vị trước cách phản ứng và những trạng thái cảm xúc của họ. Tôi cho rằng đó chính là lớp học diễn xuất hay nhất mà tôi có thể tham gia - nhìn ngắm những con người thật, lắng nghe họ nói và học hỏi những điều hay từ họ."[87]

Vào tháng 9 năm 2014, Jennifer Lawrence chính thức được ghi tên vào trang vàng trong cuốn Sách kỷ lục Guinness ấn phẩm năm 2015 với tư cách là Nữ diễn viên chính của dòng phim hành động có thu nhập cao nhất dành cho vai diễn Katniss Everdeen trong loạt phim nhiều phần The Hunger Games.[88]

Cuộc sống đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]
Lawrence là diễn viên nổi tiếng nhiều bộ phim

Lawrence sống tại New York trong vài năm đầu lập nghiệp nhưng hiện tại cô sống ở Santa Monica, California.[19] Trong tháng 8 năm 2013, cô bắt đầu xây dựng mối quan hệ với nam diễn viên người Anh Nicholas Hoult, bạn diễn trong phim X-Men: First ClassX-Men: Days of Future Past.[89] Cặp đôi bắt đầu hẹn hò trong năm 2011 sau khi quay xong bộ phim X-Men: First Class, nhưng mối quan hệ này sớm kết thúc vào tháng 1 năm 2013 sau hai năm gặp gỡ. Họ bắt đầu quay lại với nhau sáu tháng sau đó trong tháng 7 năm 2013, sau khi quay xong bộ phim X-Men: Days of Future Past.[90] Vào tháng 8 năm 2014, các trang mạng tin tức uy tín thông báo rằng cặp đôi đã chính thức chia tay nhau lần thứ hai, lịch làm việc quá bận rộn và xung đột là một trong những lý do chính khiến cả hai dừng lại mối quan hệ.[91] Về đời sống riêng tư của mình, cô nói: "Chẳng ai muốn mối quan hệ của mình bị phơi bày lên mặt báo cả, nhưng đồng thời đây cũng chỉ là lý thuyết mà thôi. Càng cố giữ bí mật, truyền thông càng cố phanh phui."[92]

Hoạt động nhân đạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Jennifer Lawrence là một trong những thành viên hoạt động tích cực trong các tổ chức từ thiện như World Food Programme, Feeding AmericaThe Thirst Project. Cô đã tổ chức một buổi công chiếu sớm bộ phim The Hunger Games: Catching Fire để gây quỹ cho trung tâm Saint Mary - một tổ chức chuyên chăm sóc người khuyết tật tại quê hương Louisville, Kentucky của Lawrence và đã quyên góp được hơn 40,000 đô la Mỹ cho quỹ.[93][94] Lawrence là một đại sứ chính thức của thế vận hội đặc biệt (Special Olympics) - tổ chức thể thao lớn nhất thế giới cho trẻ em và người lớn khuyết tật.[93][95] Bên cạnh đó, Lawrence cũng đã thành lập nên một tổ chức với tên gọi Jennifer Lawrence Foundation chuyên hoạt động các công tác từ thiện cũng giống như Screen Actors Guild Foundation (Quỹ từ thiện của Hội Diễn viên Điện ảnh) và Do Something - một tổ chức phi lợi nhuận.[93][94]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]
Lawrence tại Liên hoan phim Cannes vào năm 2013.

Điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Phim Vai diễn Ghi chú
2008 Garden Party Tiffany "Tiff"
The Poker House Agnes
The Burning Plain Mariana
2010 Winter's Bone Ree Dolly
2011 Like Crazy Sam
The Beaver Norah
X-Men: First Class Raven Darkhölme / Mystique
2012 The Hunger Games Katniss Everdeen
Silver Linings Playbook Tiffany Maxwell
House at the End of the Street Elissa Cassidy
2013 The Devil You Know Zoe Hughes trẻ Quay năm 2005
The Hunger Games: Catching Fire Katniss Everdeen
American Hustle Rosalyn Rosenfeld
2014 X-Men: Days of Future Past Raven Darkhölme / Mystique
Serena Serena Pemberton
The Hunger Games: Mockingjay – Part One Katniss Everdeen
2015 Dior and I Chính mình[96] Phim tài liệu
The Hunger Games: Mockingjay – Part Two Katniss Everdeen
Joy Joy Mangano
2016 A Beautiful Planet Người dẫn chuyện Phim tài liệu
X-Men: Apocalypse Raven Darkhölme / Mystique
Passengers Aurora Lane
2017 Mother! Mother
2018 Red Sparrow Dominika Egorova
2019 Love, Antosha Chính mình Phim tài liệu
Dark Phoenix Raven Darkhölme / Mystique
2021 Don't Look Up Tiến sĩ Kate Dibiasky

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên phim Vai diễn Ghi chú
2006 Monk Mascot[97] Tập: "Mr. Monk and the Big Game"
2007 Cold Case Abby Bradford Tập: "A Dollar, a Dream"
2007–08 Medium Claire Chase / Young Allison 2 tập
2007–09 Bill Engvall Show, TheThe Bill Engvall Show Lauren Pearson Vai chính
2013 Saturday Night Live Chính mình (người dẫn chương trình) Tập: "Jennifer Lawrence/The Lumineers"
2017 Jimmy Kimmel Live! Tập: "November 2, 2017"

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Jennifer Lawrence, Quvenzhané Wallis make Oscar history as nominations are announced”. Up and Comers. 10 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2017. Truy cập 22 tháng 1 năm 2013.
  2. ^ “Golden Globes Nominations: The Complete List”. Hollywoodreporter.com. Truy cập 24 tháng 12 năm 2013.
  3. ^ a b McCormack, Kirsty (16 tháng 1 năm 2014). “She's only 23! Oscar winner Jennifer Lawrence is nominated for another Academy Award for American Hustle”. Daily Express. Truy cập 16 tháng 1 năm 2014.
  4. ^ a b “Nominations Announced for the 20th Annual Screen Actors Guild Awards® | Screen Actors Guild Awards”. Sagawards.org. 11 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2015. Truy cập 24 tháng 12 năm 2013.
  5. ^ a b '12 Years a Slave' and 'American Hustle' lead Critics' Choice noms - CNN.com”. Edition.cnn.com. Truy cập 24 tháng 12 năm 2013.
  6. ^ a b “Hungering for a female hero: 'Hunger Games' may break new ground”. Detroit News. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2012.[liên kết hỏng]
  7. ^ 'Hunger Games': Jennifer Lawrence reaps praise from critics”. Los Angeles Times. Truy cập 24 tháng 3 năm 2012.
  8. ^ “Action Heroine Movies at the Box Office”. Box Office Mojo. Truy cập 3 tháng 4 năm 2012.
  9. ^ “How the 'Hunger Games' star became the coolest chick in Hollywood”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2012.
  10. ^ [1] Time ngày 20 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2013
  11. ^ a b Pomerantz, Dorothy (30 tháng 6 năm 2014). “Jennifer Lawrence Tops Our List Of The Most Powerful Actresses”. Forbes. Truy cập 30 tháng 6 năm 2014.
  12. ^ a b Waller, Jordan (30 tháng 4 năm 2014) "100 người phụ nữ quyến rũ nhất thế giới năm 2014: Danh sách đầy đủ" Lưu trữ 2014-05-05 tại Wayback Machine, FHM. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2014.
  13. ^ Van Meter, Jonathan (12 tháng 8 năm 2013). “The Hunger Games' Jennifer Lawrence Covers the September Issue”. Vogue. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2014. Truy cập 28 tháng 3 năm 2014.
  14. ^ a b c Schneller, Johanna (11 tháng 6 năm 2010). “Interview with Winter's Bone star Jennifer Lawrence”. The Globe and Mail. Canada. tr. 1–2. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2012. Truy cập 4 tháng 6 năm 2011. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  15. ^ Moss, Josh (tháng 12 năm 2010). “Too young for methods: Louisville's Academy Award-nominated actress Jennifer Lawrence [Movies]”. Louisville Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập 11 tháng 2 năm 2011.
  16. ^ Lord, Joseph (ngày 23 tháng 1 năm 2011). “Louisville's Jennifer Lawrence waits for magical Oscar nomination”. Louisville Courier-Journal. Truy cập 27 tháng 1 năm 2011.
  17. ^ “Jennifer Lawrence”. AskMen. 15 tháng 8 năm 1990. Truy cập 9 tháng 9 năm 2012.
  18. ^ Reed, Johnson (ngày 11 tháng 11 năm 2010). “Jennifer Lawrence, playing to strength – Los Angeles Times”. Los Angeles Times. Truy cập 22 tháng 5 năm 2012.
  19. ^ a b Schneller, Johanna (11 tháng 6 năm 2010). “Interview with Winter's Bone star Jennifer Lawrence”. The Globe and Mail. Canada. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2012. Truy cập 4 tháng 6 năm 2011.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  20. ^ Reynolds, Simon (5 tháng 3 năm 2012). “Jennifer Lawrence: 'The Hunger Games' star's career in pictures”. Digital Spy. tr. 2, 5. Truy cập 29 tháng 3 năm 2014.
  21. ^ Sassone, Bob (25 tháng 9 năm 2009). “Will you miss The Bill Engvall Show?”. AOL. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2014. Truy cập 29 tháng 3 năm 2014.
  22. ^ “2009 Nominations & Recipients”. Young Artist Association. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2011. Truy cập 5 tháng 12 năm 2013.
  23. ^ Nemetz, Dave (14 tháng 1 năm 2013). “Jennifer Lawrence's TV past: See her on 'The Bill Engvall Show'. Yahoo!. Truy cập 29 tháng 3 năm 2014.
  24. ^ Stern, Marlow (12 tháng 6 năm 2010). “Jennifer Lawrence is the breakout star of Winter's Bone!”. Manhattan Movie Magazine. Truy cập 4 tháng 6 năm 2011.
  25. ^ “Jennifer Lawrence Is 'Glad' She Lost 'Twilight' Role To Kristen Stewart”. Hollywood life. 14 tháng 12 năm 2012. Truy cập 18 tháng 4 năm 2013.
  26. ^ “Jennifer Lawrence Is 'Relieved' She Lost Twilight Role To Kristen Stewart”. Entertainment Wise. 14 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2014. Truy cập 18 tháng 4 năm 2013.
  27. ^ “Lawrence holds Marcello Mastroianni Award at Venice”. Sina Corp. Truy cập 24 tháng 4 năm 2012.
  28. ^ Roberts, Sheila (17 tháng 7 năm 2009). “Interview: Jennifer Lawrence and Director Lori Petty on THE POKER HOUSE”. collider.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2012.
  29. ^ “Parachute - The Mess I Made”. 17 tháng 7 năm 2009. Truy cập 23 tháng 3 năm 2012.
  30. ^ Kit, Borys (14 tháng 10 năm 2010). “Two join 'House at the End of the Street'. The Hollywood Reporter.
  31. ^ Medina, Jeremy (28 tháng 6 năm 2010). “Jennifer Lawrence dishes on 'Winter's Bone' and stripping for 'Esquire'. BlackBook. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2013. Truy cập 4 tháng 6 năm 2011.
  32. ^ Medina, Jeremy (ngày 28 tháng 6 năm 2010). “Jennifer Lawrence dishes on 'Winter's Bone' and stripping for 'Esquire'. BlackBook. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2011.
  33. ^ Denby, David (5 tháng 7 năm 2010). “Current Cinema: Thrills and Chills”. The New Yorker. Condé Nast: 78–79. Truy cập 12 tháng 5 năm 2011.
  34. ^ “Winter's Bone Review”. Rolling Stone. Truy cập 14 tháng 4 năm 2012.
  35. ^ “Winter's Bone awards”. New York Times. Truy cập 29 tháng 3 năm 2014.
  36. ^ Zeitchik, Steven (23 tháng 1 năm 2011). “Sundance 2011: 'Like Crazy' is bought, and will be released by, Paramount Pictures”. Los Angeles Times. Truy cập 1 tháng 2 năm 2011.
  37. ^ Wells, Jeffrey (24 tháng 10 năm 2010). “Lawrence on the Line”. Hollywood elsewhere. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2014. Truy cập 22 tháng 11 năm 2010.
  38. ^ O'Brien, Steve (13 tháng 11 năm 2013). “Jennifer Lawrence talks shape-shifting character Mystique in X-Men: Days of Future Past”. Cineworld. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2014. Truy cập 29 tháng 3 năm 2014.
  39. ^ Young, John (ngày 10 tháng 5 năm 2011). “Mel Gibson's flop 'The Beaver': What went wrong?”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2014.
  40. ^ “Academy Invites 178 to Membership”. 17 tháng 6 năm 2011. Truy cập 11 tháng 12 năm 2013.
  41. ^ Galloway, Steven (1 tháng 2 năm 2012). “Jennifer Lawrence: A Brand-New Superstar”. The Hollywood Reporter. Truy cập 7 tháng 2 năm 2012.
  42. ^ Radish, Christina (5 tháng 2 năm 2013). “Jennifer Lawrence Talks Silver Linings Playbook, The Hunger Games, Catching Fire, Her Early Work, Wanting to Direct, Oscar Nominations, and More”. Collider.com. Truy cập 29 tháng 3 năm 2014.
  43. ^ “Hunger Games Training Fun”. Digital Spy. Truy cập 28 tháng 4 năm 2012.
  44. ^ Emily Listfield (14 tháng 3 năm 2012). “Jennifer Lawrence on How the Kardashians Are Like 'The Hunger Games'. Parade.com. Truy cập 22 tháng 5 năm 2012.
  45. ^ “Weekend Report: 'The Hunger Games' Devours $152.5 Million”. Box Office mojo. Truy cập 29 tháng 3 năm 2012.
  46. ^ “Jennifer Lawrence and 'The Hunger Games': Some Good Signs for Women in Hollywood”. Forbes. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2012.
  47. ^ “The Hunger Games: Film Review”. The Hollywood Reporter. Truy cập 24 tháng 3 năm 2012.
  48. ^ Turan, Kenneth (21 tháng 3 năm 2012). “Hunger Games Review”. Los Angeles Times. Truy cập 11 tháng 4 năm 2012.
  49. ^ Ebert, Roger. “The Hunger Games”. Chicago Sun-Times. Truy cập 24 tháng 3 năm 2012.
  50. ^ a b “The Hunger Games (2012)”. Box Office Mojo. IMDb. Truy cập 3 tháng 10 năm 2012.
  51. ^ “9 Untold Secrets of the High Stakes 'Hunger Games'. The Hollywood Reporter. ngày 1 tháng 2 năm 2012. Truy cập 7 tháng 2 năm 2012.
  52. ^ Cowles, Charlotte. “Jennifer Lawrence Lands Dior Campaign”. New York. Truy cập 11 tháng 10 năm 2012.
  53. ^ Corliss, Richard. “Silver Linings Playbook Review”. Time. Truy cập 21 tháng 11 năm 2012.
  54. ^ Travers, Peter. “Silver Linings Playbook Review”. Rolling Stone. Truy cập 21 tháng 11 năm 2012.
  55. ^ “Jennifer Lawrence winning Best Actress”. Oscar channel. Truy cập 21 tháng 11 năm 2012.
  56. ^ “Nominees for the 85th Academy Awards”. Academy of Motion Picture Arts and Sciences. Truy cập 31 tháng 3 năm 2014.
  57. ^ “2013 Golden Globe Awards”. Hollywood Foreign Press Association. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2014. Truy cập 31 tháng 3 năm 2014.
  58. ^ Creepy, Uncle (4 tháng 6 năm 2010). “Max Thieriot and Jennifer Lawrence Move into the House at the End of the Street”. Dreadcentral.com. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2012. Truy cập 22 tháng 1 năm 2013.
  59. ^ “House at the End of the Street”. Internet Movie Database. Truy cập 1 tháng 2 năm 2011.
  60. ^ Tezer, Adnan (12 tháng 4 năm 2011). “Blake Lively is favorite for 'Savages' role”. Monstersandcritics.com. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2013. Truy cập 11 tháng 12 năm 2013.
  61. ^ “First Look at The Hunger Games: Catching Fire Starring Jennifer Lawrence, Josh Hutcherson, and Sam Claflin”. collider.com. Truy cập 14 tháng 9 năm 2012.
  62. ^ Zacharek, Stephanie (15 tháng 11 năm 2014). “The Hunger Games: Catching Fire Is a Delicious Middle Course”. The Village Voice. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập 1 tháng 12 năm 2013.
  63. ^ The Hunger Games: Catching Fire. Rotten Tomatoes. Truy cập 6 tháng 12 năm 2013.
  64. ^ “The 15th Annual Golden Tomato Awards”. Rotten Tomatoes. Truy cập 14 tháng 1 năm 2013.
  65. ^ Jeff Labrecque (ngày 10 tháng 1 năm 2014). 'Catching Fire' tops 'Iron Man 3,' reigns over 2013 box office”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2014. Truy cập 10 tháng 1 năm 2014.
  66. ^ Ryan Faughnder (ngày 21 tháng 11 năm 2013). “The Hunger Games: Catching Fire (2013)”. Box Office Mojo.
  67. ^ “2013 Worldwide Grosses”. Box Office Mojo. Truy cập 23 tháng 8 năm 2013.
  68. ^ Pond, Steve (25 tháng 11 năm 2013). “Jennifer Lawrence Steals the Show in 'American Hustle' First Screening”. The Wrap. Truy cập 29 tháng 3 năm 2014.
  69. ^ “The Nominees: Recognizing the year's best films”. The Oscars. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2014.
  70. ^ Geoffrey Macnab (19 tháng 12 năm 2013). “American Hustle, review: 'Jennifer Lawrence is brilliant as the neurotic housewife' – Reviews – Films”. London: The Independent. Truy cập 24 tháng 12 năm 2013.
  71. ^ Lombardi, Ken (12 tháng 1 năm 2014). “Jennifer Lawrence shakes as she accepts Golden Globe for best supporting actress”. CBS News. Truy cập 14 tháng 1 năm 2014.
  72. ^ Tartaglione, Nancy (16 tháng 2 năm 2014). “BAFTA Awards: '12 Years A Slave' Wins Best Film But 'Gravity' Carries Most Weight With Six Total Nods; Chiwetel Ejiofor & Cate Blanchett Take Actor Wins; 'American Hustle' Scores 3 Including For Jennifer Lawrence”. deadline.com. Truy cập 3 tháng 3 năm 2014.
  73. ^ Busis, Hillary (16 tháng 1 năm 2014). “The sweariest movie in Academy history, who's up for an EGOT, and more 2014 Oscars talking points”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2014. Truy cập 17 tháng 1 năm 2014.
  74. ^ “Toby Jones talks working with Jennifer Lawrence again in 'The Falling' – IFC”. Ifc.com. 18 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2012. Truy cập 22 tháng 5 năm 2012.
  75. ^ “Jennifer Lawrence and Bradley Cooper Featured in First Image for 'Serena' (Photo)”. The Hollywood Reporter. 17 tháng 11 năm 2011. Truy cập 22 tháng 5 năm 2012.
  76. ^ Jorn Rossing Jensen (30 tháng 10 năm 2013). “New Susanne Bier project revealed”. Screen Daily. Truy cập 4 tháng 12 năm 2013.
  77. ^ Alexander, Bryan (7 tháng 3 năm 2014). 'Mockingjay' director on Philip Seymour Hoffman's death”. USA Today. Gannett Company. Truy cập 29 tháng 3 năm 2014.
  78. ^ Eells, Josh (12 tháng 4 năm 2012). “Jennifer Lawrence: America's Kick-Ass Sweetheart”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2013. Truy cập 13 tháng 11 năm 2013.
  79. ^ "Jennifer Lawrence" Time. 20 tháng 4 năm 2013. Truy cập 20 tháng 4 năm 2013
  80. ^ Vineyard, Jennifer. “Hollywood Power List 2013”. Elle Magazine. Truy cập 17 tháng 10 năm 2013.
  81. ^ “Jennifer Lawrence – Top 99 Women of 2013”. AskMen. 26 tháng 12 năm 2012.
  82. ^ “The World's Most Powerful Celebrities List”. Forbes. Tháng 6 năm 2013. Truy cập 2 tháng 4 năm 2014.
  83. ^ “Sandra Bullock Tops Forbes' List Of Highest Earning Actresses With $51M”.
  84. ^ “Jennifer Lawrence compared to Laurence Olivier by 'Hunger Games' Donald Sutherland (Video)”. On the Red Carpet. 22 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập 22 tháng 8 năm 2013.
  85. ^ “Jennifer Lawrence, David O. Russell teaming up again for 'The Ends of the Earth'. Daily News. 19 tháng 2 năm 2013. Truy cập 22 tháng 8 năm 2013.
  86. ^ 'American Hustle' director David O. Russell apologizes for comparing Jennifer Lawrence's 'Hunger Games' workload to '12 Years a Slave'. Daily News. 19 tháng 2 năm 2013. Truy cập 22 tháng 8 năm 2013.
  87. ^ Pond, Steve. 'Silver Linings Playbook' Oscar Nominee Jennifer Lawrence Shares Her Acting Secret: Never Sweat”. Yahoo!.
  88. ^ Alter, Charlotte (4 tháng 9 năm 2014). “Jennifer Lawrence Is the Highest-Grossing Action Heroine”. Time.com. Truy cập 5 tháng 9 năm 2014.
  89. ^ Ryder, Taryn. “8 Things You Didn't See at the 2014 Golden Globe Awards”. Yahoo!. Truy cập 13 tháng 1 năm 2014.
  90. ^ Rivera, Zayda. “Jennifer Lawrence, Nicholas Hoult reunite six months after split, are now 'fully back on'. New York Daily News. Truy cập 13 tháng 1 năm 2014.
  91. ^ Simi John (3 tháng 8 năm 2014). “Jennifer Lawrence and Nicholas Hoult Split for Second Time: Couple Blame 'Difficult Schedules' for Break-Up”. International Business Times. Truy cập 4 tháng 8 năm 2014.
  92. ^ “Jennifer Lawrence, interview”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2012.
  93. ^ a b c Cornet, Roth (11 tháng 11 năm 2013). “10 Reasons Jennifer Lawrence is Awesome”. IGN. tr. 2. Truy cập 29 tháng 3 năm 2014.
  94. ^ a b “On Fire with Jennifer Lawrence Foundation”. Community Foundation of Louisville. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2014. Truy cập 29 tháng 3 năm 2014.
  95. ^ Sims, Andrew (21 tháng 10 năm 2013). “Jennifer Lawrence organizes early 'Catching Fire' screening in hometown to benefit special needs center”. Hypable. Truy cập 29 tháng 3 năm 2014.[liên kết hỏng]
  96. ^ “Dior and I (2015)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  97. ^ “Jennifer Lawrence's Big Break Was As A Mascot On "Monk" – CONAN on TBS”. Conan. ngày 6 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2013.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]