[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Cộng hòa Artsakh

(Đổi hướng từ Cộng hòa Nagorno-Karabakh)
Cộng hòa Artsakh
Cộng hòa Nagorno-Karabakh
Tên bản ngữ
  • Արցախի Հանրապետություն (tiếng Armenia)
    Artsakhi Hanrapetutyun
    Нагорно-Карабахская Республика (tiếng Nga)
    Nagorno-Karabakhskaya Respublika
1991–2023[a]

Quốc caԱզատ ու Անկախ Արցախ(tiếng Armenia)
Azat u Ankakh Artsakh
"Artsakh tự do và độc lập"
Tổng quan
Vị thếNhà nước không được công nhận
Thủ đôStepanakert
39°49′2″B 46°45′2″Đ / 39,81722°B 46,75056°Đ / 39.81722; 46.75056 (Presidential Palace)
Thành phố lớn nhấtcapital
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Armenia[b]
Tiếng Nga[c]
Sắc tộc
(Điều tra 2015)[2]
Tên dân cưArtsakhi
Chính trị
Chính phủCộng hòa tổng thống đơn nhất[d]
Tổng thống 
• 1994–1997 (đầu)
Robert Kocharyan
• 2023 (cuối)
Samvel Shahramanyan
Lập phápQuốc hội
Lịch sử
Độc lập từ Liên Xô
20 tháng 2 năm 1988–12 tháng 5 năm 1994
• Quyền tự trị
2 tháng 9 năm 1991[3]
10 tháng 12 năm 1991
27 tháng 9–10 tháng 11 năm 2020
19–20 tháng 9 năm 2023
• Đầu hàng
28 tháng 9 năm 2023
• Chính thức giải thể
1 tháng 1 năm 2024
Địa lý
Diện tích 
• Tổng cộng
3.170 km2[4]
1.224 mi2
Dân số 
• Ước lượng Tháng 3 năm 2021[5]
120000
• Điều tra 2015[2]
145053
Kinh tế
GDP  (PPP)Ước lượng 2019
• Tổng số
713 triệu USD
4.803 USD
Đơn vị tiền tệ (AMD)
Thông tin khác
Múi giờUTC+4 (AMT)
Giao thông bênright
Mã điện thoại+374 47[e]
Tên miền Internet.am, .հայ (thực tế)
Tiền thân
Kế tục
CHXHCNXV Azerbaijan
Azerbaijan
Hiện nay là một phần củaAzerbaijan

Artsakh, tên chính thức là nước Cộng hoà Artsakh[f] hay nước Cộng hòa Nagorno-Karabakh[g][6] từng là một nhà nước ly khai tại vùng Nam Kavkaz, có lãnh thổ được quốc tế công nhận là một bộ phận của Azerbaijan. Từ năm 1991 đến năm 2023, Artsakh kiểm soát một phần lớn của tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh cũ của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Azerbaijan, bao gồm cả thủ phủ tỉnh là Stepanakert. Artsakh từng trở thành một lãnh thổ bị Azerbaijan bao quanh từ năm 2020 cho đến năm 2023, khi một phần lớn phần lãnh thổ từng do Artsakh kiểm soát rơi vào tay Quân đội Azerbaijan.[7]

Khu vực Nagorno-Karabakh có cư dân chủ yếu là người Armenia, từng được cả Cộng hòa Dân chủ AzerbaijanĐệ nhất Cộng hòa Armenia tuyên bố chủ quyền khi hai quốc gia này giành độc lập vào năm 1918 trong bối cảnh Đế quốc Nga sụp đổ. Một cuộc chiến ngắn nhằm tranh giành khu vực nổ ra vào năm 1920. Tranh chấp này phần lớn bị gác lại sau khi Liên Xô thiết lập quyền kiểm soát tại khu vực và thành lập tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh bên trong CHXHCNXV Azerbaijan năm 1923. Trong suốt thời kỳ Liên Xô, người Armenia tại tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh bị phân biệt đối xử nặng nề. Chính quyền Azerbaijan Xô viết nỗ lực đàn áp văn hóa và bản sắc Armenia tại Nagorno-Karabakh, gây áp lực buộc người Armenia rời khỏi khu vực và khuyến khích người Azerbaijan định cư tại đây, nhưng người Armenia vẫn chiếm thế đa số.[8]

Vào cuối thập niên 1980 ngay trước khi Liên Xô sụp đổ, khu vực này lại nổi lên thành một vấn đề tranh chấp giữa Armenia và Azerbaijan. Năm 1991, một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức tại tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh và tỉnh Shahumyan lân cận, dẫn đến tuyên bố độc lập. Xung đột bùng phát thành chiến tranh toàn diện vào năm 1992.[7] Được hỗ trợ từ Armenia, Artsakh giành chiến thắng trong cuộc chiến này. Thỏa thuận đình chiến được ký kết vào năm 1994, tình hình đóng băng khiến lãnh thổ này trở nên độc lập trên thực tế, có một chính phủ tự xưng tại Stepanakert, nhưng vẫn phụ thuộc nặng nề và tích hợp chặt chẽ với Armenia, trên thực tế giống như là một phần của Armenia trong nhiều phương diện.[9][10] Mặc dù Armenia chưa bao giờ chính thức công nhận khu vực độc lập, nhưng họ trở thành quốc gia hỗ trợ tài chính và quân sự chính cho lãnh thổ.[11][12] Năm 2017, một cuộc trưng cầu dân ý trong khu vực thông qua hiến pháp mới, chuyển đổi hệ thống chính phủ từ bán tổng thống sang dân chủ tổng thống, và đổi tên nước từ Cộng hòa Nagorno-Karabakh thành Cộng hòa Artsakh, nhưng cả hai tên đều là chính thức.

Từ năm 1994 đến năm 2020, quân đội Armenia và Azerbaijan bị ngăn cách qua một đường tiếp xúc không chính thức,[13] xảy ra một số sự cố chết người lẻ tẻ trong giai đoạn này.[14] Năm 2020, một cuộc chiến mới diễn ra trong khu vực,[7] Azerbaijan giành được chiến thắng và giành lại tất cả các huyện xung quanh Nagorno-Karabakh từng bị chiếm đóng và một phần đáng kể lãnh thổ được Artsakh tuyên bố chủ quyền.[9][12][14] Vào tháng 9 năm 2023, Azerbaijan phát động một cuộc tấn công khác. Vào ngày 28 tháng 9, tổng thống của Artsakh ký sắc lệnh giải thể tất cả các tổ chức của nước cộng hòa trước ngày 1 tháng 1 năm 2024, chấm dứt sự tồn tại của nước cộng hòa.[15] Đến ngày 1 tháng 10 năm 2023, gần như toàn bộ cư dân trong khu vực đã chạy sang Armenia.[16]

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]
Thị trấn Chartar vào năm 2010
Quang cảnh thủ đô Stepanakert vào năm 2015

Theo các học giả, các chữ khắc có niên đại từ thời kỳ Urartu đề cập đến khu vực này dưới nhiều tên khác nhau: "Ardakh", "Urdekhe" và "Atakhuni".[17][18][19] Trong Geographica, nhà sử học cổ điển Strabo đề cập đến một vùng của Armenia mà ông gọi là "Orchistene", được một số người tin là phiên bản tiếng Hy Lạp từ tên cũ của Artsakh.[20][21][22]

Theo một giả thuyết khác do David M. Lang đưa ra, tên cổ của Artsakh có thể bắt nguồn từ tên Quốc vương Artaxias I của Armenia (190–159 TCN), người sáng lập triều đại Artaxiad và vương quốc Đại Armenia.[23]

Từ nguyên dân gian cho rằng cái tên này có nguồn gốc từ "Ar" (Aran) và "tsakh" (rừng, vườn) (tức là các khu vườn của Aran Sisakean, nakharar đầu tiên của vùng đông bắc Armenia).[24]

Tên gọi "Nagorno-Karabakh" thường được sử dụng trong tiếng Anh, xuất phát từ tên tiếng Nga có nghĩa là "Karabakh miền núi". Karabakh là một từ tiếng Turk/Ba Tư được cho là có nghĩa là "khu vườn đen". Tên tiếng Azerbaijan của khu vực này là "Dağlıq Qarabağ", có cùng ý nghĩa với tên tiếng Nga. Thuật ngữ "Artsakh" thiếu những ảnh hưởng phi Armenia như là "Nagorno-Karabakh". Nó được hồi sinh để sử dụng trong thế kỷ 19 và là thuật ngữ ưa thích được người dân địa phương sử dụng, trong tiếng Anh, tiếng Nga cũng như tiếng Armenia.[25] "Karabakh miền núi" đôi khi được sử dụng trực tiếp trong tên tiếng Anh chính thức "Cộng hòa Karabakh miền núi". Điều này phản ánh nỗ lực thoát khỏi những liên tưởng tiêu cực với "Nagorno-Karabakh" do chiến tranh."[26]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thể Liên Xô; Chiến tranh Nagorno-Karabakh thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ Artsakh và các vùng lãnh thổ xung quanh. Khu vực có đường viền màu đỏ bao quanh tương ứng với lãnh thổ do Cộng hòa Artsakh kiểm soát trên thực tế từ năm 1994 đến năm 2020. Các vùng màu vàng tương ứng với tỉnh tự trị Nagorno Karabakh thời Liên Xô, với các vùng sọc vàng do Azerbaijan kiểm soát nhưng Cộng hòa Artsakh yêu sách. Các vùng sọc xanh tương ứng với các lãnh thổ bên ngoài tỉnh tự trị cũ do Artsakh nắm giữ cho đến khi kết thúc Chiến tranh Nagorno-Karabakh thứ hai.

Trong thời gian trước khi Liên Xô giải thể, xung đột Nagorno-Karabakh lại hồi sinh. Năm 1987–88, một phong trào quần chúng bắt đầu tại Nagorno-Karabakh và Armenia Xô viết, kêu gọi chính phủ Liên Xô chuyển khu vực này sang cho Armenia, trích dẫn luật tự quyết trong hiến pháp Liên Xô.[27] Bắt đầu với bạo động chống lại người Armenia tại thị trấn Sumgait của Azerbaijan vào tháng 2 năm 1988, xung đột ngày càng trở nên bạo lực và các nỗ lực của Moskva nhằm giải quyết tranh chấp đã thất bại. Vào mùa hè năm 1988, các cơ quan lập pháp của Armenia Xô viết và tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh thông qua các nghị quyết tuyên bố thống nhất Nagorno-Karabakh với Armenia, nhưng bị các chính phủ Azerbaijan Xô viết và trung ương Liên Xô bác bỏ.[28]

Azerbaijan tuyên bố độc lập khỏi Liên Xô vào ngày 30 tháng 8 năm 1991, và chính thức giành được chủ quyền sau cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 21 tháng 9 năm 1991. Sau đó, vào ngày 27 tháng 11 năm 1991, quốc hội đã thu hồi quyền tự trị của khu vực Nagorno-Karabakh, khiến các nhà lãnh đạo địa phương kêu gọi trưng cầu dân ý về độc lập khỏi Azerbaijan vào ngày 10 tháng 12 năm 1991.[13] Kết quả là khoảng 99% người dân tộc Armenia ở vùng Nagorno-Karabakh bỏ phiếu ủng hộ ly khai. Artur Mkrtchyan được chọn làm tổng thống vùng Nagorno-Karabakh sau cuộc bầu cử quốc hội vào ngày 28 tháng 12 năm 1991. Vào ngày 2 tháng 1 năm 1992, Tổng thống Ayaz Mutallibov của Azerbaijan đặt vùng Nagorno-Karabakh dưới quyền kiểm soát trực tiếp của tổng thống, và Nagorno-Karabakh chính thức tuyên bố độc lập khỏi Azerbaijan vào ngày 6 tháng 1 năm 1992.[13]

Tuyên bố này bị Azerbaijan bác bỏ, dẫn đến bùng nổ chiến tranh toàn diện giữa một bên là Armenia và Nagorno-Karabakh và một bên là Azerbaijan. Chiến tranh Nagorno-Karabakh thứ nhất kết thúc bằng đình chiến vào tháng 5 năm 1994, kết quả là các lực lượng Armenia kiểm soát lãnh thổ của tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh trước đây cũng như hầu hết bảy huyện lân cận của Azerbaijan.[29] Theo UNHCR, cuộc xung đột khiến cho hơn 600.000 người di tản nội bộ trong Azerbaijan.[30]

Độc lập trên thực tế sau chiến tranh (1994–2020)

[sửa | sửa mã nguồn]

Cộng hòa Artsakh trên thực tế trở thành một quốc gia độc lập, nhưng được tích hợp chặt chẽ với Armenia, nhưng lãnh thổ này vẫn được quốc tế công nhận là một bộ phận của Cộng hòa Azerbaijan. Giáo sư Matt Qvortrup nhận định các nước Tây Âu đạo đức giả khi háo hức công nhận một số quốc gia độc lập từ Nam Tư, nhưng không thể hiện sự quan tâm tương tự đối với cuộc trưng cầu dân ý tại Nagorno-Karabakh.[31]

Giao tranh không liên tục trong khu vực vẫn tiếp tục sau lệnh ngừng bắn năm 1994 nhưng không có thay đổi đáng kể về lãnh thổ,[32] đến năm 1994 thì Nhóm OSCE Minsk khởi xướng nỗ lực hòa giải quốc tế nhằm kiến tạo một tiến trình hòa bình.[33][34][35]

Phố Artsakh tại Watertown, Massachusetts năm 2011

Chiến tranh Nagorno-Karabakh thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]
Bức tường có hình ảnh những người lính Armenia hy sinh trong Chiến tranh Nagorno-Karabakh thứ hai

Vào ngày 27 tháng 9 năm 2020, giao tranh nổ ra giữa Armenia và Azerbaijan vì vấn đề Artsakh,[36][37] có thể đã khiến hàng nghìn người thiệt mạng.[38] Đến tháng 11, Azerbaijan tái chiếm nhiều lãnh thổ, chủ yếu ở phần phía nam của khu vực, cùng với thị trấn chiến lược Shushi. Thỏa thuận đình chiến được ký vào ngày 10 tháng 11 năm 2020 giữa Armenia, Azerbaijan và Nga, tuyên bố chấm dứt giao tranh và xác định Armenia sẽ rút khỏi các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng còn lại xung quanh Nagorno-Karabakh. Thỏa thuận bao gồm điều khoản triển khai Lực lượng gìn giữ hòa bình Nga tới khu vực.[39][40]

Không có quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc nào công nhận Artsakh,[41] nhưng một số quốc gia không được công nhận và được công nhận hạn chế đã công nhận Artsakh.[42] Nhiều chính quyền địa phương khác nhau từng kêu gọi chính phủ quốc gia của họ công nhận Artsakh.[43]

Vào tháng 12 năm 2022, một số người Azerbaijan tự xưng là các nhà hoạt động môi trường đã chặn hành lang Lachin, con đường duy nhất nối Nagorno-Karabakh với Armenia và thế giới bên ngoài.[44] Ngày 23 tháng 4 năm 2023, lực lượng Azerbaijan lắp đặt một trạm kiểm soát trên hành lang Lachin.[45] Cuộc phong tỏa dẫn đến một cuộc khủng hoảng nhân đạo đối với người dân tại Artsakh; khiến 120.000 cư dân trong khu vực bị mắc kẹt.[46][47]

Azerbaijan tấn công, và giải thể

[sửa | sửa mã nguồn]
Người tị nạn Armenia trong cuộc thanh lọc sắc tộc tại Nagorno-Karabakh

Ngày 19 tháng 9, Azerbaijan phát động một cuộc tấn công quân sự. Ngày hôm sau, chính phủ Cộng hòa Artsakh đồng ý giải giáp và lệnh ngừng bắn có hiệu lực. Các cuộc đàm phán ban đầu giữa đại biểu của cộng đồng người Armenia tại Karabakh và Chính phủ Azerbaijan diễn ra vào ngày 21 tháng 9 tại Yevlakh để thảo luận về an ninh, quyền lợi và "hội nhập".[48] Các cuộc đàm phán kết thúc mà không có thỏa thuận chính thức, tuy nhiên, Tổng thống Azerbaijan cho biết các cuộc đàm phán tiếp theo sẽ tiếp tục.[49] Vào ngày 24 tháng 9, thường dân dân tộc Armenia bắt đầu sơ tán hàng loạt vì lo sợ bị đàn áp và thanh lọc sắc tộc nếu họ vẫn ở lại.[48][50]

Vào ngày 28 tháng 9, Tổng thống Artsakh Samvel Shahramanyan ký một sắc lệnh tuyên bố rằng tất cả các tổ chức nhà nước sẽ bị giải thể trước ngày 1 tháng 1 năm 2024, chấm dứt sự tồn tại của nước cộng hòa.[51] Tổng thống Azerbaijan Ilham Aliyev đến thăm khu vực này vào ngày 15 tháng 10 và chính thức kéo cờ Azerbaijan tại tòa nhà từng được sử dụng làm Phủ Tổng thống Artsakh.[52]

Hệ tư tưởng và ngoại giao

[sửa | sửa mã nguồn]

Quan hệ Artsakh-Armenia

[sửa | sửa mã nguồn]

Artsakh là một nhà nước độc lập trên thực tế, có quan hệ chặt chẽ với Armenia và sử dụng cùng loại tiền tệ là dram. Theo Human Rights Watch, "từ khi bắt đầu cuộc xung đột Karabakh, Armenia đã cung cấp viện trợ, vũ khí và tình nguyện viên. Sự can dự của Armenia vào Artsakh leo thang sau cuộc tấn công của Azerbaijan vào tháng 12 năm 1993. Cộng hòa Armenia bắt đầu gửi lính nghĩa vụ và quân đội chính quy cùng binh sĩ của Bộ Nội vụ đến chiến đấu tại Artsakh."[53] Chính trị của Armenia và Artsakh gắn bó với nhau đến mức Robert Kocharyan từng là Tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Nagorno-Karabakh từ năm 1994 đến năm 1997, sau đó là thủ tướng Armenia từ năm 1997 đến năm 1998, và tổng thống thứ hai của Armenia từ năm 1998 đến 2008.

Tuy nhiên, chính phủ Armenia nhiều lần chống lại áp lực nội bộ để thống nhất hai bên do các cuộc đàm phán đang diễn ra dưới bảo trợ của Nhóm OSCE Minsk. Trong nghiên cứu của Dov Lynch thuộc Viện Nghiên cứu An ninh của WEU, "việc Karabakh độc lập cho phép nhà nước mới Armenia tránh được quốc tế kỳ thị vì hành vi xâm lược, bất chấp thực tế là quân đội Armenia đã chiến đấu trong cuộc chiến 1991–94 và tiếp tục duy trì Đường Tiếp xúc Karabakh và Azerbaijan.", Lynch cũng trích dẫn rằng "sức mạnh của lực lượng vũ trang Armenia và liên minh chiến lược của Armenia với Nga, được chính quyền tại Stepanakert cho là lá chắn quan trọng bảo vệ nhà nước Karabakh".[54] Một số nguồn nhìn nhận Artsakh hoạt động trên thực tế giống như là một phần của Armenia.[55][56][57]

Đàm phán (2001–2007)

[sửa | sửa mã nguồn]

Đại biểu của Armenia, Azerbaijan, Pháp, Nga và Hoa Kỳ gặp nhau tại Paris và tại Key West, Florida, vào đầu năm 2001.[58] Bất chấp những tin đồn rằng các bên gần đạt được giải pháp, chính quyền Azerbaijan – cả trong thời kỳ nắm quyền của Heydar Aliyev và sau khi con trai ông Ilham Aliyev lên cầm quyền năm 2003 – đã kiên quyết phủ nhận rằng bất kỳ thỏa thuận nào đã đạt được tại Paris hoặc Key West.

Các cuộc đàm phán sâu hơn giữa các tổng thống Azerbaijan và Armenia là Ilham AliyevRobert Kocharyan được tổ chức vào tháng 9 năm 2004 tại Astana, Kazakhstan. Một đề xuất là rút lực lượng chiếm đóng khỏi các lãnh thổ Azerbaijan tiếp giáp với Artsakh và sau đó tổ chức cuộc trưng cầu dân ý tại Artsakh và Azerbaijan về tình trạng tương lai của khu vực.[59]

Ngày 10 và 11 tháng 2 năm 2006, Kocharyan và Aliyev gặp nhau tại Rambouillet, Pháp, để thảo luận về việc giải quyết xung đột. Các cuộc đàm phán không đạt được bất kỳ thỏa thuận nào.[59] Azerbaijan chính thức yêu cầu trước tiên quân đội Armenia rút khỏi tất cả các khu vực của Azerbaijan bên ngoài Nagorno-Karabakh, và tất cả những người phải di dời được phép trở về nhà của họ.

Các cuộc đàm phán được tổ chức trong đại sứ quán Ba Lan tại Bucharest vào tháng 6 năm 2006.[60] Một lần nữa, các nhà ngoại giao Mỹ, Nga và Pháp lại tham dự cuộc hội đàm kéo dài hơn 40 phút.[61] Theo Bộ trưởng Ngoại giao Armenia Vardan Oskanyan, không có tiến bộ nào đạt được trong cuộc họp này.[62] Bất đồng lớn giữa hai bên trong hội nghị là địa vị của Artsakh. Giải pháp của Azerbaijan là trao cho Artsakh "địa vị tự trị cao nhất được áp dụng trên thế giới".[63] Armenia tán thành một cuộc bỏ phiếu phổ thông của người dân Artsakh để quyết định tương lai của họ.[64]

"Tiến trình Praha" do Nhóm OSCE Minsk giám sát đã được đưa ra vào mùa hè năm 2006. Quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Matthew Bryza nói với Radio Free Europe rằng Nhóm Minsk ủng hộ một cuộc trưng cầu dân ý tại Karabakh để quyết định trạng thái cuối cùng của họ.[65]

Quan điểm (2007–)

[sửa | sửa mã nguồn]

Armenia không công nhận các yêu sách của Azerbaijan đối với Nagorno-Karabakh và tin rằng lãnh thổ này phải có quyền tự quyết.[66] Chính phủ Armenia và Artsakh đều lưu ý rằng nền độc lập của Artsakh được tuyên bố vào khoảng thời gian Liên Xô giải thể và các thành viên của liên bang trở nên độc lập.[67][68] Chính phủ Armenia khẳng định rằng chính phủ Artsakh phải được tham gia vào bất kỳ cuộc thảo luận nào về tương lai của khu vực, và từ chối nhượng lại lãnh thổ bị chiếm đóng hoặc cho phép người tị nạn quay trở lại trước khi tổ chức các cuộc đàm phán về tình trạng của khu vực.[69]

Năm 2009, Tổng thống Cộng hòa Nagorno-Karabakh Bako Sahakyan tuyên bố rằng "Artsakh sẽ không bao giờ là một phần của Azerbaijan. An ninh Artsakh cũng không bao giờ nên là một điều khoản thương mại. Về các vấn đề khác, chúng tôi sẵn sàng thảo luận chúng với Azerbaijan."[70] Năm 2010, Tổng thống Armenia Serzh Sargsyan tuyên bố rằng "Karabakh chưa bao giờ là một phần của Azerbaijan độc lập: Nó được sáp nhập vào Azerbaijan theo quyết định của Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhân dân Karabakh không bao giờ chấp nhận quyết định này và ngay từ cơ hội đầu tiên đã ly khai khỏi Liên Xô một cách hoàn toàn phù hợp với luật pháp Liên Xô cùng luật pháp quốc tế được áp dụng".[71]

Năm 2008, Tổng thống Azerbaijan Ilham Aliyev tuyên bố rằng "Nagorno-Karabakh sẽ không bao giờ độc lập; quan điểm này cũng được các nhà hòa giải quốc tế ủng hộ; Armenia phải chấp nhận thực tế" và rằng "vào năm 1918, Yerevan đã được trao cho người Armenia. Đó là một sai lầm lớn. Hãn quốc Iravan là lãnh thổ của người Azeri, người Armenia là khách ở đây".[72]

Vào ngày 14 tháng 3 năm 2008, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết với 39 phiếu ủng hộ và 100 phiếu trắng, tái khẳng định sự toàn vẹn lãnh thổ của Azerbaijan, và yêu cầu Armenia rút quân ngay lập tức khỏi tất cả các vùng lãnh thổ chiếm đóng.[73]

Ngày 20 tháng 5 năm 2010, Nghị viện Châu Âu đã thông qua nghị quyết "về sự cần thiết của Chiến lược EU cho Nam Kavkaz", trong đó tuyên bố rằng EU phải theo đuổi một chiến lược để thúc đẩy ổn định, thịnh vượng và giải quyết xung đột ở Nam Kavkaz.[74][75]:3,38

Ngày 26 tháng 6 năm 2010, các nước đồng chủ tịch của Nhóm OSCE Minsk là Pháp, Nga và Hoa Kỳ đưa ra tuyên bố chung, tái khẳng định "cam kết hỗ trợ các nhà lãnh đạo của Armenia và Azerbaijan khi họ hoàn thiện các Nguyên tắc cơ bản vì giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột Nagorno-Karabakh".[76]

Trong chuyến thăm Stepanakert vào tháng 8 năm 2019, Thủ tướng Armenia Nikol Pashinyan trình bày các mục tiêu phát triển chiến lược của Armenia trong ba thập kỷ tới. Ông không đưa ra điều khoản đặc biệt nào cho Nagorno-Karabakh vì "Artsakh là Armenia và không có lựa chọn thay thế nào".[77]

Chính phủ và chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc hội Artsakh tại Stepanakert

Artsakh là một nền dân chủ tổng thống (chuyển đổi từ chế độ bán tổng thống sau trưng cầu dân ý năm 2017). Chức vụ thủ tướng bị bãi bỏ và quyền hành pháp thuộc về tổng thống, người này vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu chính phủ. Tổng thống được bầu trực tiếp với tối đa hai nhiệm kỳ 5 năm liên tiếp.[6]

Quốc hội là cơ quan lập pháp đơn viện, có 33 thành viên được bầu với nhiệm kỳ 5 năm.[78] Các cuộc bầu cử diễn ra trong hệ thống đa đảng; vào năm 2009, tổ chức phi chính phủ Hoa Kỳ Freedom House xếp hạng Cộng hòa Artsakh ở trên Armenia và Azerbaijan về các quyền dân sự và chính trị.[79]

Artsakh phụ thuộc nhiều vào Armenia, và trong một số khía cạnh trên thực tế hoạt động và được quản lý giống như một phần của Armenia. Tuy nhiên, Armenia ngần ngại trong việc chính thức công nhận Artsakh.[10][80]

Hiến pháp

[sửa | sửa mã nguồn]
Dinh Tổng thống
Tòa nhà chính phủ

Các tài liệu thành lập Cộng hòa Nagorno-Karabakh là Tuyên bố của Cộng hòa Nagorno KarabakhTuyên ngôn độc lập nhà nước của Cộng hòa Nagorno Karabakh. Trong một thời gian dài không có hiến pháp nào được ban hành, thay vào đó nước cộng hòa tuyên bố pháp luật Armenia được áp dụng trên lãnh thổ của mình thông qua một điều luật năm 1992. Ngay cả khi luật mới được thông qua, chúng thường là bản sao của luật Armenia tương đương.[81]

Ngày 3 tháng 11 năm 2006, tổng thống lúc bấy giờ của Cộng hòa Nagorno-Karabakh là Arkadi Ghukasyan ký sắc lệnh tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về dự thảo hiến pháp Nagorno-Karabakh.[82] Cuộc bỏ phiếu được tổ chức vào ngày 10 tháng 12 cùng năm, và có tới 98,6% số phiếu tán thành hiến pháp.[83] Điều đầu tiên của văn kiện mô tả Cộng hòa Nagorno-Karabakh, hay còn gọi là Cộng hòa Artsakh, là "một nhà nước dân chủ, có chủ quyền dựa trên công bằng xã hội và pháp quyền."[84][85]

Cuộc bỏ phiếu bị chỉ trích gay gắt từ các tổ chức liên chính phủ như Liên minh Châu Âu, OSCEGUAM, họ bác bỏ cuộc trưng cầu dân ý và cho rằng nó bất hợp pháp.[86] Đồng minh của Azerbaijan là Thổ Nhĩ Kỳ cũng lên tiếng chỉ trích.[87]

Một cuộc trưng cầu dân ý khác được tổ chức vào ngày 20 tháng 2 năm 2017, với 87,6% phiếu ủng hộ xây dựng hiến pháp mới. Hiến pháp này cùng với những thay đổi khác đã biến chính phủ từ mô hình bán tổng thống sang mô hình tổng thống hoàn toàn. Tên gọi được đổi từ "Hiến pháp Cộng hòa Nagorno Karabakh" thành "Hiến pháp Cộng hòa Artsakh", mặc dù cả hai đều là tên chính thức của đất nước.[6][88][89] Cuộc trưng cầu dân ý được cho là một phản ứng đối với Đụng độ Nagorno-Karabakh 2016.[90]

Quan hệ đối ngoại

[sửa | sửa mã nguồn]
Bộ Ngoại giao Artsakh tại Stepanakert

Bộ Ngoại giao có trụ sở tại Stepanakert. Vì không có thành viên hoặc quan sát viên nào của Liên Hợp Quốc công nhận Artsakh, nên họ không có mối quan hệ đối ngoại nào mang tính chất ngoại giao chính thức. Tuy nhiên, Cộng hòa Artsakh điều hành năm cơ quan đại diện thường trực và một cục Thông tin Chính trị-Xã hội tại Pháp. Phái đoàn thường trực của Artsakh tồn tại ở Armenia, Đức, Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Úc và một cho các quốc gia Trung Đông có trụ sở tại Beirut.[91] Mục tiêu của các văn phòng là trình bày quan điểm của Cộng hòa về các vấn đề khác nhau, cung cấp thông tin và tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hòa bình.

Trong bài phát biểu năm 2015, Tổng thống Armenia Serzh Sargsyan tuyên bố rằng ông nhìn nhận Nagorno-Karabakh là "một phần không thể tách rời của Armenia".[92]

Cộng hòa Artsakh không phải là thành viên hay quan sát viên của Liên Hợp Quốc hay bất kỳ cơ quan chuyên môn nào của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, họ là thành viên của Cộng đồng Dân chủ và Quyền lợi của các quốc gia, thường được gọi là "Cộng đồng các quốc gia không được công nhận", và được công nhận bởi Transnistria, AbkhaziaNam Ossetia.

Quân sự

[sửa | sửa mã nguồn]
Mộ phần của các chiến binh Armenia tại Stepanakert.

Theo Hiến pháp Artsakh, quân đội nằm dưới quyền chỉ huy dân sự của chính phủ.[93] Quân đội Phòng thủ Artsakh được chính thức thành lập vào ngày 9 tháng 5 năm 1992 với mục đích phòng thủ chống lại Azerbaijan, nhưng sau đó bị giải tán vào ngày 21 tháng 9 năm 2023 theo các điều khoản trong thỏa thuận đình chiến sau Cuộc tấn công quân sự năm 2023 của Azerbaijan.[94]

Họ từng chiến đấu với quân đội Azerbaijan để đạt được lệnh đình chiến vào ngày 12 tháng 5 năm 1994.[95] Vào thời kỳ đỉnh cao, Quân đội Phòng thủ Artsakh bao gồm khoảng 18.000–20.000 binh sĩ. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 8.500 công dân đến từ Artsakh phục vụ trong quân đội; khoảng 10.000 người đến từ Armenia. Ngoài ra còn có 177–316 xe tăng, 256–324 chiến xa khác, 291–322 súng và súng cối. Armenia cung cấp vũ khí và các nhu yếu phẩm quân sự khác cho Artsakh. Một số tiểu đoàn của quân đội Armenia được triển khai trực tiếp đến khu vực Artsakh.[96]

Hậu quả xung đột (1988–2023)

[sửa | sửa mã nguồn]

Người di tản

[sửa | sửa mã nguồn]

Người tị nạn Azerbaijan và phi Armenia khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuộc xung đột Nagorno-Karabakh thứ nhất khiến cho 597.000 người Azerbaijan phải di dời (con số này bao gồm 230.000 trẻ em được sinh ra từ những người di tản nội bộ và 54.000 người đã trở về)[97] bao gồm Artsakh, và 220.000 người Azerbaijan, 18.000 người Kurd và 3.500 người Nga chạy trốn từ Armenia đến Azerbaijan từ năm 1988 đến năm 1989. Chính phủ Azerbaijan ước tính rằng 63% người di tản nội bộ sống dưới mức nghèo so với 49% của tổng dân số. Khoảng 154.000 người sống tại thủ đô Baku. Theo Tổ chức Di cư Quốc tế, 40.000 người di tản nội bộ sống trong các trại, 60.000 người trong hầm trú ẩn và 20.000 người trong các toa tàu. 40.000 người di tản nội bộ sống tại các khu định cư do EU tài trợ, và UNHCR cung cấp nhà ở cho 40.000 người khác. Hàng chục nghìn người sống trong bảy khu lều trại, tại đó nguồn cung cấp nước và vệ sinh kém gây ra các bệnh nhiễm trùng đường tiêu hóa, lao và sốt rét.[98][99]

Trong Chiến tranh năm 2020, Tổng thống Aliyev cho biết ông có ý định cho những người tị nạn quay trở lại khu vực.[100][101] Trong khi nhiều thành phố cũ này không thể ở được,[102] Chính phủ Azerbaijan và một số công ty Azerbaijan đã công bố kế hoạch xây dựng lại cơ sở hạ tầng và đầu tư vào các vùng lãnh thổ mới được kiểm soát.[103][104] Quân đội Azerbaijan tiến hành rà phá bom mìn trước khi tái định cư, quá trình này có thể mất 10–13 năm.[105]

Người tị nạn Armenia

[sửa | sửa mã nguồn]

280.000 người—hầu như tất cả người dân tộc Armenia tại Azerbaijan phải chạy trốn trong cuộc chiến tranh 1988–1993—đang sống trong hoàn cảnh giống như người tị nạn tại Armenia.[106] Một số rời khỏi đất nước này, chủ yếu là đến Nga. Con cái của họ sinh ra tại Armenia sẽ tự động có được quyền công dân. Do đó, số lượng của họ có thể giảm liên tục do rời đi và yêu cầu hủy đăng ký để nhập quốc tịch. Trong số này, khoảng 250.000 người chạy trốn khỏi Azerbaijan (các khu vực bên ngoài Nagorno-Karabakh); khoảng 30.000 đến từ Nagorno-Karabakh. Tất cả đều được đăng ký với chính phủ với tư cách là người tị nạn.[106]

Cả hai bên xung đột trong Chiến tranh Nagorno-Karabakh thứ nhất đều đặt bom mìn trong khu vực. Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tuyên bố rằng 123 người đã thiệt mạng và hơn 300 người bị thương do mìn gần khu vực tranh chấp Nagorno-Karabakh, kể từ khi thỏa thuận đình chiến năm 1994 chấm dứt cuộc xung đột kéo dài 6 năm giữa các lực lượng dân tộc Armenia và Azerbaijan cho đến năm 2005.[107]

HALO Trust, một tổ chức phi chính phủ về rà phá bom mìn có trụ sở tại Anh, là tổ chức quốc tế duy nhất tiến hành rà phá bom mìn tại Nagorno Karabakh.[108] Họ đã phá hủy 180.858 loại đạn dược vũ khí nhỏ, 48.572 đơn vị "vật liệu nổ khác", 12.423 bom chùm, 8.733 mìn sát thương và 2.584 mìn chống tăng từ năm 2000 đến năm 2016.[109] Đến năm 2018, họ đã rà phá 88% số bãi mìn trên lãnh thổ, với mục tiêu dọn sạch phần còn lại vào năm 2020. Các thành phố chính StepanakertShusha, cũng như xa lộ chính Bắc-Nam đã được dọn sạch và an toàn cho việc đi lại. Nỗ lực rà phá bom mìn phần lớn được tài trợ từ Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID).[110]

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ địa hình Artsakh trong biên giới 1994−2020

Cộng hòa Artsakh có địa hình miền núi, đặc điểm này là nguồn gốc tên cũ của họ (từ tiếng Nga có nghĩa là "Karabakh miền Núi/Cao nguyên"). Diện tích khu vực là 3.170 km2 (3,170000000×109 m2).[4] Vùng nước lớn nhất là hồ chứa Sarsang, và các con sông lớn là TartarKhachen.[111] Đất nước này nằm trên một cao nguyên dốc về hướng đông và đông nam, với độ cao trung bình là 1.100 m (3.600 ft) trên mực nước biển.[112] Hầu hết các con sông trong nước đều chảy về Thung lũng Artsakh.[112]

Địa chất của Artsakh chủ yếu là một phần của lưu vực tiền địa Kussary-Divichi—phần phía bắc lưu vực tiền địa Đại Kavkaz. Máng được lấp đầy bởi nước sâu có độ tuổi từ Oligocen đến Đệ tứ, molasse và đá trầm tích biển.[113]

Khí hậu êm dịu và ôn hòa. Nhiệt độ trung bình là 11 °C (52 °F), dao động hàng năm trong khoảng từ 22 °C (72 °F) vào tháng 7 và −1 °C (30 °F) trong tháng 1. Lượng mưa trung bình có thể đạt tới 710 mm (28 in) ở một số vùng và có sương mù hơn 100 ngày một năm.[112] Hơn 2.000 loại thực vật tồn tại ở Artsakh và hơn 36% diện tích đất nước là rừng. Đời sống thực vật trên thảo nguyên chủ yếu bao gồm thảm thực vật bán sa mạc, trong khi hệ sinh thái vùng cận núi cao và lãnh nguyên núi cao có thể được tìm thấy trên rừng ở vùng cao nguyên và vùng núi.[112]

Hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]
Vùng Artsakh trước chiến tranh năm 2020:
1: Martakert; 2: Askeran; 3: Stepanakert (thành phố); 4: Martuni; 5: Shushi; 6: Hadrut; 7: Shahumyan; 8: Kashatagh
(Các đường đứt nét dọc biểu thị lãnh thổ bên ngoài tỉnh tự trị Nagorno-Karabakhvùng Shahumyan. Các đường đứt nét ngang biểu thị lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của Azerbaijan trước chiến tranh.)
Vác vùng của Artsakh sau năm 2020:
1: Martakert; 2: Askeran; 3: Stepanakert (thành phố); 4: Martuni; 5: Shushi
Các vùng yêu sách:
6: Hadrut; 7: Shahumyan
(Các đường đứt nét ngang biểu thị lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của Azerbaijan.)

Artsakh được chia thành bảy tỉnh và một thành phố hành chính đặc biệt. Theo các nhà chức trách của Artsakh, họ bao gồm các lãnh thổ mà nước cộng hòa Nagorno-Karabakh từng tuyên bố: Tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh (NKAO), vùng Shahumyan và tiểu khu Getashen; và những lãnh thổ từng là một phần của Cộng hòa Artsakh trước Chiến tranh Nagorno-Karabakh thứ hai.[114][115][116]

Tính đến năm 2022, lãnh thổ Artsakh bao gồm hầu hết bốn huyện của tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh cũ, còn huyện thứ năm là tỉnh Hadrut hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Azerbaijan. Cũng được Artsakh yêu sách là vùng Shahumyan của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Azerbaijan, nằm dưới quyền kiểm soát của Azerbaijan kể từ Chiến tranh Nagorno-Karabakh thứ nhất. Mặc dù vùng Shahumyan không phải là một phần của tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh, nhưng các đại biểu từ Shahumyan đã tuyên bố độc lập cùng với tỉnh, và tuyên bố độc lập của Artsakh bao gồm vùng Shahumyan trong biên giới của mình.[117]

Sau khi kết thúc Chiến tranh Nagorno-Karabakh thứ hai, một thỏa thuận đình chiến được ký kết, theo đó hầu hết các lãnh thổ do Cộng hòa Artsakh kiểm soát được chuyển giao cho Azerbaijan kiểm soát, nhưng Cộng hòa Artsakh tiếp tục yêu sách các vùng lãnh thổ này.[114][115][116]

Sau tuyên bố độc lập của Cộng hòa Artsakh, chính phủ Azerbaijan bãi bỏ tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh và thành lập các huyện của Azerbaijan để thay thế. Kết quả là, một số đơn vị hành chính của Artsakh tương ứng với các huyện của Azerbaijan, trong khi các đơn vị khác có biên giới khác nhau.[118]

Đơn vị hành chính danh nghĩa của Artsakh
Dưới đây là bảng so sánh các đơn vị của Artsakh và các huyện tương ứng của Azerbaijan:
# Tỉnh của Artsakh[119] Dân số (2005) Thủ phủ Tỉnh tự trị cũ? Rayon tương ứng
của Azerbaijan
1 Tỉnh Martakert2 18.963 Martakert Phần phía đông của Kalbajar,
phần phía tây của Tartar,
một phần của Agdam
2 Tỉnh Askeran2 16.979 Askeran Khojali
3 Stepanakert (thủ đô) 49.986 Stepanakert Khankendi
4 Tỉnh Martuni2 23.157 Martuni Miền bắc Khojavend
5 Tỉnh Shushi2 4.324 Shushi1 Shusha
6 Tỉnh Hadrut2 12.005 Hadrut1 Miền nam Khojavend
7 Tỉnh Shahumyan1 2,l.560 Karvachar1 Không Phần phía nam của Goranboy,
Phần phía tây của Kalbajar
8 Tỉnh Kashatagh1 9.763 Berdzor3 Không Lachin, Qubadli, Zangilan
1 Hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của Azerbaijan sau 2020.
2 Một phần nằm dưới quyền kiểm soát của Azerbaijan sau 2020.
3 Quay trở lại Azerbaijan cùng với Zabukh và Sus vào ngày 25 tháng 8 năm 2022, sau khi hoàn thành tuyến đường mới đi vòng qua các khu định cư đó.

Nhân khẩu

[sửa | sửa mã nguồn]
Trẻ em tại Trung tâm Tumo chi nhánh Artsakh

Vào tháng 9 năm 2023, hầu hết người Armenia tại Artsakh đã chạy trốn khỏi đất nước. Theo Thủ tướng Armenia Nikol Pashinyan, 100.417 người đã từ Artsakh đến Armenia.[120] Năm 2015, dân số cả nước là 145.000 người, trong đó 99,7% là người Armenia.[2] Thành phần dân tộc này thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ so với cuộc điều tra dân số năm 1979 và 1989, khi người Azerbaijan lần lượt chiếm 23 và 21,5%. Tỷ lệ sinh hàng năm được ghi nhận ở mức 2.200–2.300 bé mỗi năm, tăng từ gần 1.500 vào năm 1999.

Báo cáo của OSCE công bố vào tháng 3 năm 2011 ước tính dân số của "bảy vùng lãnh thổ bị chiếm đóng xung quanh Nagorno-Karabakh" là 14.000 người, và cho biết "dân số không có sự tăng trưởng đáng kể từ năm 2005."[121][122] Một báo cáo của Tổ chức Khủng hoảng Quốc tế được công bố vào tháng 12 năm 2019 đã ghi nhận dân số của các vùng lãnh thổ này là 17.000 người, hay 11,48% tổng dân số: 15.000 người tại phía tây và tây nam của tỉnh cũ và 2000 người ở huyện Agdam.[123]

Cho đến năm 2000, tỷ lệ di cư ròng của đất nước ở mức âm.[124] Trong nửa đầu năm 2007, có 1.010 ca sinh và 659 ca tử vong, với tổng số 27 người di cư.[125]

Theo nhóm tuổi: 15.700 (0–6), 25.200 (7–17) 75.800 (18–59) và 21.000 (60+)

Dân số theo tỉnh (2006):

Dân số Cộng hòa Artsakh (2000–2008)[126][127]

Năm Dân số (nghìn) Đô thị (nghìn) Nông thôn (nghìn) Tỷ suất sinh Tỷ suất tử NGR Nhập cư ròng
2000 134,4 68,4 66,0 16,6 8,8 7,7 16,1
2001 135,7 68,7 67,0 17,0 7,9 9,1 11,5
2002 136,6 69,3 67,3 16,0 9,1 6,9 4,9
2003 137,0 69,1 67,9 15,0 9,0 6,0 1.3
2004 137,2 69,8 67,4 15,3 9,5 5,8 −2.6
2005 137,7 70,5 67,2 14,6 9,2 5,4 1.7
2006 137,7 70,8 66,9 15,3 9,0 6,3 −3,2
2007 138,8 71,6 67,2 15,4 8,8 6,6 −1,4
2008 139,9 72,7 67,2 17,3 9,4 7,9 2,6

Thành phần dân tộc

[sửa | sửa mã nguồn]

Các dân tộc của tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh (1926–1989) và Cộng hòa Artsakh (2015) theo dữ liệu điều tra dân số[128]

Dân tộc 1921[129] 1926 1939 1959 1970 1979 1989 2005 2015 1
# % # % # % # % # % # % # % # % # %
Armenia 122.800 89 111.694 89,1 132.800 88,0 110.053 84,4 121.068 80,5 123.076 75,9 145.450 76,9 137.380 99,7 144.683 99,7
Azerbaijan 15.400 11 12.592 10,0 14.053 9,3 17.995 13,8 27.179 18,1 37.264 23,0 40.688 21,5 6 0 ,0
Nga 596 0,5 3.174 2,1 1.790 1,4 1.310 0,9 1.265 0,8 1.922 1,0 171 0,1 238 0,2
Ukrainia 436 0,3 193 0,1 140 0,1 416 0,2 21 0,0 26 0,0
Yezidi 16 0,0
Assyria 16 0,0
Gruzia 15 0,0
Khác 416 0,3 374 0,2 568 0,4 563 0,4 436 0,3 609 0,3 159 0,1 59 0,0
Tổng 138.500 125.300 150.837 130.406 150.313 162.181 189.085 137.737 145.053
Biên giới lãnh thổ của tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh và Cộng hòa Artsakh là khác nhau. Dân số của các vùng lãnh thổ do Artsakh chiếm đóng xung quanh Nagorno-Karabakh có ít nhất là 201.016 và nhiều nhất là 421.726 người vào năm 1989.[130]

Ngôn ngữ

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Armenia giữ vai trò là ngôn ngữ nhà nước duy nhất và là ngôn ngữ chính thức tại Cộng hòa Artsakh,[131] cũng là ngôn ngữ mẹ đẻ của hơn 99% dân số. Dưới thời cai trị của Liên Xô, người dân tộc Armenia tại Nagorno-Karabakh trở nên thông thạo tiếng Nga hơn so với người Azerbaijan trong khu vực cũng như người Armenia tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Armenia. Rất ít người Armenia học tiếng Azerbaijan và ngôn ngữ này bị loại bỏ tích cực sau Chiến tranh Nagorno-Karabakh. Mặc dù tiếng Nga vẫn được sử dụng nhất định sau thời gian này, và được cho là ngôn ngữ thứ hai nhưng nó không được sử dụng rộng rãi ở cấp độ bản ngữ.[26]

Tiếng Nga được sử dụng rộng rãi tại Arstakh, có những nỗ lực được thực hiện từ cuối năm 2020 tại quốc hội để đưa tiếng Nga làm một ngôn ngữ chính thức bổ sung; lời biện minh chính thức cho điều này là tiếng Nga đã là ngôn ngữ thứ hai của nhiều người dân và nó sẽ tạo ra "điều kiện để hợp tác sâu sắc hơn trên mọi lĩnh vực, [cũng như góp phần] phát triển các mối quan hệ trong khuôn khổ pháp lý."[132] Quốc hội Artsakh thông qua một dự luật xác nhận tư cách chính thức của tiếng Nga vào ngày 25 tháng 3 năm 2021.[131]

Thành thị

[sửa | sửa mã nguồn]
Các thành phố và thị trấn chính tại Artsakh (kiểm soát lãnh thổ từ 1991 đến 2020)

Thủ đô và thành phố lớn nhất tại Artsakh là Stepanakert (55.200 dân vào năm 2015), tiếp theo là Martuni (5.700), Martakert (4.600), Chartar ( 4.000), Askeran (2.300), Haterk (khoảng 1.600), Berdashen (khoảng 1.600), Vank (khoảng 1.600), Noragyugh (khoảng 1.500), Ivanyan (khoảng 1.400), Taghavard (khoảng 1.300) , Gishi (khoảng 1.100), Karmir Shuka (khoảng 1.100), Sos (khoảng 1.100), Aygestan (khoảng 1.100) và Khnapat (khoảng 1.000).[133][134] Danh sách này chỉ bao gồm các thị trấn Artsakh giữ được sau cuộc chiến năm 2020.

Những nỗ lực tái định cư sau năm 1994

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 1989 đến năm 1994, dân số trên lãnh thổ do Artsakh kiểm soát giảm đáng kể, chỉ còn lại khoảng 40% dân số trước chiến tranh. Phần lớn là do cư dân Azerbaijan di dời và thiệt mạng tại cả tỉnh tự trị cũ và các vùng lãnh thổ xung quanh, khiến một số khu đô thị cũ gần như trống rỗng. Nhóm thiểu số người Nga cũng giảm hiện diện, khiến dân số gần như 100% là người Armenia. Bắt đầu từ năm 1995, dân số bắt đầu tăng do sinh sản và nhập cư.[135]

Mặc dù lãnh thổ chiếm được bên ngoài tỉnh tự trị cũ ban đầu được xem là một con bài thương lượng tiềm năng, nhưng dần dần nó bắt đầu được cả quan chức và người dân nói chung cho là một phần của đất nước.[25] Chính phủ có trụ sở tại Stepanakert đưa ra nhiều chương trình khác nhau nhằm đưa những người định cư lâu dài Armenia đến những vùng đất bị suy giảm dân cư, bao gồm cả các khu vực người Azerbaijan từng sinh sống trước đây, được ưu tiên hàng đầu là những khu vực giáp Armenia – Lachin và Kalbajar.[136] Lachin là chìa khóa kết nối trên bộ giữa Armenia và tỉnh tự trị Nagorno–Karabakh trước đây, và Kalbajar có nguồn tài nguyên nước được cả Artsakh và Armenia sử dụng.[25]

Azerbaijan cho đây là hành vi vi phạm Điều 49 của Công ước Genève thứ tư, mà Armenia tham gia vào năm 1993, theo đó "Thế lực chiếm đóng sẽ không trục xuất hoặc chuyển một bộ phận dân thường của họ vào lãnh thổ mà họ chiếm đóng".[137] Đảng cầm quyền của Azerbaijan cáo buộc phía Armenia thay đổi một cách giả tạo tình hình nhân khẩu học và thành phần dân tộc của khu vực bị chiếm đóng để có thể đưa ra các yêu sách trong tương lai đối với chúng.[138]

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]
Tu viện Gandzasar
Nhà thờ Thánh Grigoris của Tu viện Amaras

Hầu hết người Armenia tại Artsakh theo đạo Cơ đốc và là tín đồ của Giáo hội Tông truyền Armenia, là một giáo hội Chính thống giáo Đông phương. Một số giáo phái Chính thống Đông phươngTin lành cũng tồn tại.Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ, chẳng hạn thông số tên không hợp lệ, quá nhiều thông số, …[139] Vào đầu thế kỷ 5, người phát minh ra bảng chữ cái ArmeniaMesrop Mashtots thành lập ngôi trường đầu tiên sử dụng chữ viết của ông tại Amaras.[140][141]

  • Tu viện Katarovank được thành lập vào thế kỷ 4 và nằm gần làng Hin Tagher thuộc tỉnh Hadrut. Nhà nguyện ngày nay là một công trình kiến trúc có từ thế kỷ 17. Có các khachkar của Armenia ở gần nhà nguyện. Tu viện có tầm nhìn toàn cảnh độc đáo ra sông Araxes.
  • Tu viện Tsitsernavank (thế kỷ thứ 4) là ví dụ được bảo tồn tốt nhất về một vương cung thánh đường Armenia với ba gian giữa. Tu viện nằm tại làng Tsitsernavank thuộc tỉnh Kashatagh.
  • Tu viện Yeghishe Arakyal (thế kỷ 5–13) tưởng nhớ Thánh Yeghishe, nhà truyền bá Phúc âm nổi tiếng của vùng đất phía đông Armenia. Nhà thờ là nơi chôn cất của Vua Vachagan II vào thế kỷ 5. Tu viện nằm ở tỉnh Martakert.
  • Tu viện Bri Yeghtsi (thế kỷ 13) tập trung vào các khachkar, vật tưởng niệm bằng đá độc đáo của Armenia với những cây thánh giá được chạm khắc. Tu viện nằm gần làng Hatsi tại tỉnh Martuni.
  • Tu viện Gandzasar (thế kỷ 13) là một tu viện lịch sử tại Artsakh. Mục đích của chính phủ Artsakh là đưa Tu viện Gandzasar vào danh mục di sản thế giới của UNESCO.
  • Tu viện Dadivank, hay Khutavank, được xây dựng từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 13. Đây là một trong những tu viện có ý nghĩa nhất về mặt kiến trúc và văn hóa tại Artsakh. Tu viện nằm tại tỉnh Shahumyan và từng được đặt dưới sự bảo vệ của lực lượng gìn giữ hòa bình Nga.
  • Tu viện Gtichavank (thế kỷ 13) có những đặc điểm thiết kế giống với phong cách kiến trúc của thủ đô Ani của Armenia thời trung cổ. Tu viện nằm ở tỉnh Hadrut.
  • Tu viện Yerits Mankants (thế kỷ 17) là nơi đặt trụ sở của các giáo sĩ đối thủ với Tòa thánh Gandzasar. Tu viện nằm tại tỉnh Martakert.
  • Nhà thờ Thánh John Baptist, nằm ở thị trấn Martakert, được xây dựng vào năm 1883.
  • Nhà thờ lớn Ghazanchetsots được xây dựng từ năm 1868–1888, nằm tại Shusha. Đây là nhà thờ chính và trụ sở của "Giáo phận Artsakh" của Giáo hội Tông truyền Armenia.
  • Ngay phía trên nhà thờ lớn ở Shusha là nhà thờ Kanach Zham ('Nhà thờ Xanh' trong tiếng Armenia), được xây dựng vào năm 1847.
  • Nhà thờ Thánh Nerses Vĩ đại, nằm ở thị trấn Martuni, được thánh hiến vào năm 2004. Nó được dành riêng cho Thượng phụ Nerses I.
  • Nhà thờ Thánh Mẫu Thiên Chúa ở thành phố Stepanakert, được thánh hiến vào năm 2019.

Giáo dục

[sửa | sửa mã nguồn]
Đại học Nhà nước Artsakh

Giáo dục tại Artsakh là bắt buộc và miễn phí cho đến 18 tuổi. Hệ thống giáo dục được kế thừa từ hệ thống cũ của Liên Xô.[142]

Hệ thống trường học của Artsakh bị hư hại nghiêm trọng do xung đột 1991–1994. Nhưng chính phủ Cộng hòa Artsakh đã xây dựng lại nhiều trường học từ viện trợ đáng kể của Armenia và từ quyên góp của cộng đồng người Armenia hải ngoại. Trước cuộc chiến tranh năm 2020, Artsakh có khoảng 250 trường học với quy mô khác nhau, trong đó có hơn 200 trường nằm tại các khu vực. Số lượng học sinh ước tính hơn 20.000, với gần một nửa ở thủ đô Stepanakert.

Đại học Nhà nước Artsakh được thành lập từ nỗ lực chung của chính phủ Artsakh và Armenia, có cơ sở chính tại Stepanakert. Lễ khai giảng trường đại học diễn ra vào ngày 10 tháng 5 năm 1992. Đại học Quản lý Yerevan cũng mở chi nhánh tại Stepanakert.

Khách sạn tại trung tâm thành phố Stepanakert

Tình hình kinh tế xã hội của Cộng hòa Artsakh bị ảnh hưởng nặng nề do cuộc xung đột 1991–1994. Tuy nhiên, đầu tư nước ngoài sau đó cũng đến. Nguồn gốc của hầu hết vốn mạo hiểm đến từ người Armenia sống tại Armenia, Nga, Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Iran và Trung Đông.

Đáng chú ý là lĩnh vực viễn thông được Karabakh Telecom phát triển[143] đầu tư hàng triệu đô la vào hạ tầng điện thoại di động, thuộc một công ty Liban. Karabakh Telecom bị ngắt kết nối liên lạc bên ngoài vào ngày 27 tháng 9 năm 2023.[144]

Khai thác đồng và vàng được phát triển kể từ năm 2002, khi phát triển và triển khai hoạt động tại mỏ Drmbon.[145] Khoảng 27–28 nghìn tấn (trọng lượng ướt) cô đặc được sản xuất[146] với hàm lượng đồng trung bình 19–21% và hàm lượng vàng 32–34 g/t.[147] Azerbaijan nhìn nhận bất kỳ hoạt động khai thác nào ở Nagorno-Karabakh là bất hợp pháp và tuyên bố sẽ thuê một công ty kiểm toán quốc tế để xác định thiệt hại.[148]

Hệ thống ngân hàng được quản lý bởi Artsakhbank (một ngân hàng Armenia có trụ sở tại Yerevan thực hiện các chức năng của ngân hàng nhà nước Nagorno-Karabakh) và một số ngân hàng Armenia khác. Nước cộng hòa cũng sử dụng dram Armenia.

Nghề trồng nho và chế biến nông sản, đặc biệt là rượu vang (lưu kho rượu, bảo quản rượu, rượu cognac) là một trong những hướng phát triển kinh tế ưu tiên.[149]

Karmir Shuka

Trước chiến tranh năm 2020, nước cộng hòa phát triển ngành du lịch hướng tới Armenia và cộng đồng người Armenia hải ngoại. Nước cộng hòa này nhận lượng khách du lịch tăng mạnh trong vài năm trước đó nhờ có nhiều điểm tham quan văn hóa tại Artsakh. Trước cuộc chiến năm 2020 có chín[150][cần nguồn thứ cấp]

khách sạn tại Stepanakert. Cơ quan phát triển Artsakh cho biết có 4.000 khách du lịch đến thăm Artsakh vào năm 2005. Con số này tăng lên 8.000 vào năm 2010 (không bao gồm du khách đến từ Armenia).[151] Cơ quan này hợp tác với Cơ quan Phát triển Du lịch Armenia (ATDA) vì Armenia là cách duy nhất mà khách du lịch (chủ yếu là người dân tộc Armenia) có thể tiếp cận Artsakh. Bộ Ngoại giao Artsakh ghi nhận việc mở rộng liên tục về khu vực địa lý của du khách.[152] Cơ sở hạ tầng du lịch được phát triển xung quanh các địa điểm như các tu viện trưng bày lịch sử Armenia trong khu vực,[25] còn các địa điểm Hồi giáo hiếm khi được khôi phục,[153] trong khi một số thành phố ma và khu vực gần tiền tuyến không cho phép khách du lịch.[25]

Các điểm du lịch bao gồm:

Các điểm tham quan du lịch khác bao gồm:

  • Pháo đài Mayraberd (thế kỷ 10-18) đóng vai trò là thành trì chính chống lại các cuộc xâm lược của người du mục Turk từ thảo nguyên phía đông. Pháo đài nằm ở phía đông thủ đô Stepanakert.
  • Nhà thờ Hồi giáo Govhar Agha (thế kỷ 18), nhà thờ Hồi giáo nằm ở thành phố Shusha.
Đoạn đường mòn Janapar

Đường mòn Janapar là một đường mòn được đánh dấu, xuyên qua những ngọn núi, thung lũng và thôn làng Artsakh, với các tu viện và pháo đài trên đường đi.[154] Con đường này được chia thành các chuyến đi bộ ban ngày, đưa khách du lịch đến một ngôi làng khác nhau mỗi đêm.[155]

Chi phí lưu trú tại Artsakh tương đối rẻ so với phần còn lại của khu vực và dao động trong khoảng 25–70 USD cho một người tính đến tháng 5 năm 2017.[150]

Tuy nhiên, những người đến Artsakh mà không có sự đồng ý và cho phép trước của chính phủ Azerbaijan sẽ bị từ chối nhập cảnh vào Azerbaijan vì nước này nhìn nhận Artsakh là lãnh thổ của họ bị [Quân đội Armenia chiếm đóng bất hợp pháp.[156]

Trước cuộc chiến năm 2020, Lễ hội rượu vang Artsakh diễn ra hàng năm ở Togh kể từ năm 2014. Lễ hội được tổ chức vào thứ Bảy của tuần thứ ba của tháng 9 hàng năm.[157] Nó nhằm mục đích khôi phục truyền thống sản xuất rượu vang Artsakh. Theo truyền thống, lễ hội đi kèm với ca hát và nhảy múa dân tộc Armenia. Lễ hội phát triển thành ngày lễ quốc gia.[158]

Giao thông

[sửa | sửa mã nguồn]
Sân bay Stepanakert

Hệ thống giao thông đã bị hư hại do cuộc xung đột 1991–1994. Xa lộ Bắc-Nam Artsakh tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hệ thống giao thông.[159]

Trước chiến tranh năm 2020, xa lộ Hadrut-Stepanakert-Askeran-Martakert 169 kilômét (105 mi) là huyết mạch của Artsakh, và 25 triệu đô la được quyên góp trong các buổi truyền hình của Hayastan All-Armenian Foundation được phân bổ để xây dựng con đường.[159][160]

Một tuyến đường mới từ thủ đô Armenia Yerevan đến Stepanakert được lên kế hoạch để bỏ qua quãng đường 8–9 giờ lái xe qua hành lang Lachin.[161] Tuyến đường đã được khai trương vào tháng 9 năm 2017.[162] Con đường thứ ba được lên kế hoạch vào năm 2019.[163] Sau cuộc chiến năm 2020, một con đường mới dự kiến được xây dựng dọc hành lang Lachin để tránh Shusha.[164]

Chính quyền Liên Xô đã mở một tuyến đường sắt tại tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh vào năm 1944. Tuyến đường này nối thủ phủ Stepanakert và Yevlax tại Azerbaijan. Nó được xây dựng theo khổ tiêu chuẩn 1520 mm của Nga. Do Chiến tranh Nagorno-Karabakh thứ nhất, tuyến đường sắt bị hư hỏng nặng và bị đóng cửa.[165]

Sân bay Stepanakert là sân bay dân sự duy nhất của Cộng hòa Artsakh, nằm cách thủ đô khoảng 8 kilômét (5 dặm) về phía đông, nhưng đóng cửa kể từ khi bắt đầu chiến tranh vào năm 1990. Từng có kế hoạch mở các chuyến bay thường xuyên đến Yerevan, Armenia, của hãng hàng không nhà nước Artsakh Air.[166]

Truyền thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Truyền thông tại Artsakh gồm điện thoại, vệ tinh và các dịch vụ và quy định liên lạc khác trong khu vực. Karabakh Telecom là công ty viễn thông duy nhất tại Artsakh, được thành lập vào ngày 1 tháng 2 năm 2002[167] bởi doanh nhân người Liban gốc Armenia Pierre Fattouch.[168] KT cũng được điều hành bởi Tổng Giám đốc Ralf Yerikian, một doanh nhân người Liban gốc Lebanon.[169]

Tập tin:2014 Stepanakert, Monument My i Nasze Góry (02).jpg
Tượng đài "Chúng tôi là những ngọn núi của chúng tôi" khắc họa một người đàn ông và một người phụ nữ

"Chúng tôi là những ngọn núi của chúng tôi" của Sargis Baghdasaryan là một tượng đài nằm tại Stepanakert.[170] Tác phẩm điêu khắc được nhiều người cho là biểu tượng của Cộng hòa Artsakh. Đây là một tượng đài lớn về một người đàn ông và phụ nữ Armenia cao tuổi được đẽo từ đá tuff, đại diện cho người miền núi Artsakh. Nó còn được gọi là Tatik yev Papik ("Bà và ông") trong tiếng Armenia. Tác phẩm điêu khắc được thể hiện nổi bật trên quốc huy của Artsakh.[171][172]

Bảo tàng Nhà nước Artsakh là bảo tàng lịch sử của Cộng hòa Artsakh. Tọa lạc tại số 4 Phố Sasunstsi David tại Stepanakert, bảo tàng cung cấp nhiều loại đồ tạo tác cổ và các bản thảo Cơ đốc giáo. Ngoài ra còn có nhiều hiện vật gần đây hơn, có niên đại từ thế kỷ 19 cho đến Thế chiến thứ hai và từ các sự kiện trong Chiến tranh giành độc lập Karabakh.

Azat Artsakh ( Artsakh tự do) là tờ báo chính thức của Cộng hòa Artsakh. Nó được in hàng ngày và được cung cấp bằng tiếng Armenia, tiếng Anh và tiếng Nga.[173] Các chủ đề điển hình bao gồm xung đột Nagorno-Karabakh, diệt chủng người Armenia và các vấn đề khác liên quan đến người Armenia. Ngoài Azat Artsakh, nhiều phương tiện truyền thông in ấn được xuất bản bằng nhiều ngôn ngữ, thường cung cấp các phần tiếng Ngatiếng Anh ngoài phần tiếng Armenia.

Sân vận động Cộng hòa Stepanakert tại Stepanakert

Do Artsakh không được công nhận, các đội thể thao trong nước không thể thi đấu ở hầu hết các giải đấu quốc tế. Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Artsakh. Stepanakert có một sân vận động bóng đá được xây dựng tốt. Từ giữa những năm 1990, các đội bóng từ Artsakh bắt đầu tham gia một số giải đấu trong nước tại Armenia. Lernayin Artsakh FC đại diện cho thành phố Stepanakert. Tại Artsakh, các câu lạc bộ bóng đá trong nước thi đấu tại Giải bóng đá Artsakh được thành lập vào năm 2009. Đội tuyển bóng đá quốc gia Artsakh được thành lập vào năm 2012 và chơi trận đấu đầu tiên với Đội tuyển bóng đá quốc gia Abkhazia tại Sokhumi.[174][175] Ngoài ra cư dân còn có hứng thú với các môn thể thao khác như bóng rổ và bóng chuyền. Chèo thuyền được tổ chức tại thị trấn Martakert. Các đội thể thao và vận động viên Artsakh cũng tham gia Đại hội thể thao liên Armenia được tổ chức tại Armenia.

Danh sách 'ngày nghỉ lễ trong nhà nước:[176]

Ngày[111] Tên gọi Tên gọi địa phương Ghi chú
31 tháng 12 – 1 tháng 1 Tết Dương lịch
6 tháng 1 Giáng sinh tiếng Armenia: Սուրբ ծնունդ
28 tháng 1 Ngày Bảo vệ quê hương
20 tháng 2 Ngày Hồi sinh Artsakh tiếng Armenia: Արցախի վերածննդի օր
8 tháng 3 Ngày Quốc tế Phụ nữ tiếng Armenia: Կանանց միջազգային օր
7 tháng 4 Ngày Làm mẹ và Sắc đẹp tiếng Armenia: Մայրության և գեղեցկության օր
24 tháng 4 Ngày tưởng niệm diệt chủng người Armenia tiếng Armenia: Մեծ Եղեռնի զոհերի հիշատակի օր
1 tháng 5 Ngày đoàn kết của người lao động tiếng Armenia: Աշխատանքի օր
9 tháng 5 Ngày Chiến thắng, Lực lượng Vũ trang & Giải phóng Shushi tiếng Armenia: Հաղթանակի, զինված ուժերի և Շուշիի ազատագրման օր
28 tháng 5 Ngày Cộng hòa Armenia thứ nhất tiếng Armenia: Հանրապետության օր
1 tháng 6 Ngày Quốc tế thiếu nhi tiếng Armenia: Երեխաների համաշխարհային օր
29 tháng 6 Ngày tưởng niệm liệt sĩ và mất tích trong chiến đấu
2 tháng 9 Ngày Cộng hòa
7 tháng 12 Ngày tưởng niệm động đất Armenia
10 tháng 12 Ngày Hiến pháp
  1. ^ Chính thức giải thể vào ngày 1 tháng 1 năm 2024
  2. ^ Hiến pháp đảm bảo "việc sử dụng tự do các ngôn ngữ khác được truyền bá trong dân chúng".
  3. ^ Từ 2021.[1]
  4. ^ Cộng hòa nghị viện cho đến cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp năm 2017
  5. ^ +374 97 cho điện thoại di động.
  6. ^ tiếng Armenia: Արցախի Հանրապետություն, chuyển tự Arts'akhi Hanrapetut'yun.
  7. ^ tiếng Nga: Нагорно-Карабахская Республика, chuyển tự Nagorno-Karabakhskaya Respublika (НКР, NKR); tiếng Armenia: Լեռնային Ղարաբաղի Հանրապետություն, chuyển tự Lerrnayin Gharabaghi Hanrapetut'yun (ԼՂՀ, LGhH).

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Парламент Карабаха признал русский язык официальным языком республики [Parliament of Karabakh recognized Russian as the official language of the republic] (bằng tiếng Nga). Арменпресс [Armenpress]. 25 tháng 3 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2021 – qua RBK Group.
  2. ^ a b c Таблица 5.2-1 Население (городское, сельское) по национальности, полу (PDF) (bằng tiếng Nga). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2018.
  3. ^ Zürcher, Christoph (2007). The Post-Soviet Wars: Rebellion, Ethnic Conflict, and Nationhood in the Caucasus . New York: New York University Press. tr. 168. ISBN 9780814797099.
  4. ^ a b “Территориальные потери Арцаха в результате второй Карабахской войны (статистика и карты)”. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2023.
  5. ^ “Nikol Pashinyan, Arayik Harutyunyan chair meeting on ongoing and upcoming programs to be implemented in Artsakh”. primeminister.am. The Office to the Prime Minister of the Republic of Armenia. 25 tháng 3 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2021. ...today most of the population – about 120,000 citizens – live in Artsakh...
  6. ^ a b c “Constitution of the Republic of Artsakh”. Ministry of Foreign Affairs of the Nagorno Karabakh Republic. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2020. The names 'Republic of Artsakh' and 'Republic of Nagorno-Karabakh' are identical.
  7. ^ a b c Wilson, Audrey (4 tháng 8 năm 2022). “Violence Flares in Nagorno-Karabakh”. Foreign Policy. Washington, D.C.: Graham Holdings Company. ISSN 0015-7228. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2022.
  8. ^ Parts of a Circle I: The Road to War (Documentary) (bằng tiếng English). Media Initiatives Center, Internews Azerbaijan, and the Humanitarian Research Public Union. tháng 5 năm 2020.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  9. ^ a b “Nagorno-Karabakh Conflict”. Council on Foreign Relations. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2023.
  10. ^ a b Hughes, James (2002). Ethnicity and Territory in the Former Soviet Union: Regions in Conflict. London: Cass. tr. 211. ISBN 978-0-7146-8210-5. Indeed, Nagorno-Karabakh is de facto part of Armenia.
  11. ^ “Nagorno-Karabakh profile”. BBC News. 7 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2023.
  12. ^ a b Andrew Higgins; Ivan Nechepurenko (27 tháng 9 năm 2023). “A Stunningly Sudden End to a Long, Bloody Conflict in the Caucasus”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2023.
  13. ^ a b c “How the Nagorno-Karabakh conflict has been shaped by past empires”. National Geographic. 25 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2023.
  14. ^ a b “The Nagorno-Karabakh Conflict: A Visual Explainer”. International Crisis Group. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2023.
  15. ^ “Nagorno-Karabakh Republic will cease to exist from Jan 1 2024 - Nagorno-Karabakh authorities”. Reuters. 28 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2023.
  16. ^ “Nagorno-Karabakh almost empty as most of population flees to Armenia”. Radio France Internationale. 30 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2023.
  17. ^ Chorbajian, Levon; Donabedian Patrick; Mutafian, Claude. The Caucasian Knot: The History and Geo-Politics of Nagorno-Karabagh. NJ: Zed Books, 1994, p. 52
  18. ^ Ulubabyan, Bagrat (1976). Արցախ [Arts'akh]. Armenian Soviet Encyclopedia (bằng tiếng Armenia). ii. Yerevan: Armenian Academy of Sciences. tr. 150–151.
  19. ^ Christopher Walker. The Armenian presence in Mountainous Karabakh, in John F. R. Wright et al.: Transcaucasian Boundaries (SOAS/GRC Geopolitics). 1995, p. 91
  20. ^ Strabo (1903). “11.14”. Trong Hamilton, H. C.; Falconer, W. (biên tập). Geography. London: George Bell & Sons. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2022 – qua Perseus Project.
  21. ^ Roller, Duane W (2018). A historical and topographical guide to the geography of Strabo. Cambridge, United Kingdom; New York, NY: Cambridge University Press. tr. 678. ISBN 978-1-316-84820-3. OCLC 1127455921. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2020.
  22. ^ Baratov, Boris (1992). Ангел Арцаха: памятники армянского искусства Нагорного Карабаха. Moscow: Editions "Linguiste". tr. 6.
  23. ^ Lang, David M (1988). The Armenians: a People in Exile. London: Unwin Hyman. tr. x. ISBN 978-0-04-956010-9.
  24. ^ Mkrtchyan, Shahen (2000). Treasures of Artsakh. Yerevan: Tigran Mets Publishing. tr. 10.
  25. ^ a b c d e Toal, Gerard; O'Loughlin, John (5 tháng 11 năm 2013). “Land for Peace in Nagorny Karabakh? Political Geographies and Public Attitudes Inside a Contested De Facto State”. Territory, Politics, Governance. 1 (2): 158–182. doi:10.1080/21622671.2013.842184. S2CID 54576963. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2020.
  26. ^ a b Muth, Sebastian (tháng 1 năm 2014). “War, language removal and self-identification in the linguistic landscapes of Nagorno-Karabakh”. Nationalities Papers. 42 (1): 67, 69–70, 72, 84–85. doi:10.1080/00905992.2013.856394. S2CID 128709302. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2021.
  27. ^ Starovoytova, Galina (tháng 11 năm 1997). “Sovereignty after Empire: Self-Determinationa Movements in the Former Soviet Union” (PDF). United States Institute of Peace. tr. vi. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 5 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2015.
  28. ^ De Waal, Thomas (2003). Black Garden: Armenia and Azerbaijan Through Peace and War. New York: NYU Press. tr. 60–61. ISBN 0-8147-1944-9. OCLC 50959080.
  29. ^ Krüger, Heiko (2010), “Involvement of the Republic of Armenia in the conflict of Nagorno-Karabakh”, The Nagorno-Karabakh Conflict, Springer Berlin Heidelberg, tr. 93–114, doi:10.1007/978-3-642-14393-9_2, ISBN 9783642117879
  30. ^ “Submission by the United Nations High Commissioner for Refugees For the Office of the High Commissioner for Human Rights' Compilation Report – Universal Periodic Review: Azerbaijan”. Refworld (bằng tiếng Anh). United Nations High Commissioner for Refugees (UNHCR). tháng 10 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2020.
  31. ^ Qvortrup, Matt (2019). The Referendum and Other Essays on Constitutional Politics. Oxford, England: Hart Publishing. tr. 57. ISBN 978-1-50992-929-0. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  32. ^ “Armenia/Azerbaijan – Border clashes between the two countries (15 Jul. 2020)” (bằng tiếng Anh). Ministry of Europe and Foreign Affairs (France). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2020.
  33. ^ “Is Turkey a brother in arms or just extending its footprint into Nagorno-Karabakh?”. France 24 (bằng tiếng Anh). 29 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  34. ^ Palmer, James (28 tháng 9 năm 2020). “Why Are Armenia and Azerbaijan Heading to War?”. Foreign Policy (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  35. ^ OSCE Minsk Group (2 tháng 10 năm 2020). “Statement by the Co-Chairs of the OSCE Minsk Group”. Organization for Security and Co-operation in Europe (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  36. ^ “Armenia and Azerbaijan Are at War. Does Trump Even Know?”. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2020.
  37. ^ “Dozens Dead as Armenia–Azerbaijan Clashes Continue”. The Guardian (bằng tiếng Anh). 28 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2020.
  38. ^ “Nagorno-Karabakh: Nearly 5,000 dead in conflict, Putin says”. BBC News. 22 tháng 10 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2020.
  39. ^ Bar, Hervé (AFP) (12 tháng 11 năm 2020). “Russian Peacekeepers Head to Nagorno-Karabakh After Peace Deal”. The Moscow Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2020.
  40. ^ “Armenia, Azerbaijan and Russia reach agreement to end Nagorno-Karabakh fighting”. France 24 (bằng tiếng Anh). 9 tháng 11 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2022.
  41. ^ “French Senate pushes Paris to recognize Nagorno-Karabakh”. The Washington Post. 25 tháng 11 năm 2020.[liên kết hỏng]
  42. ^ “Вице-спикер парламента Абхазии: Выборы в НКР соответствуют всем международным стандартам” (24 May 2010). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2021. Абхазия, Южная Осетия, НКР и Приднестровье уже давно признали независимость друг друга и очень тесно сотрудничают между собой", - сказал вице-спикер парламента Абхазии. ... "...Абхазия признала независимость Нагорно-Карабахской Республики..." - сказал он.
  43. ^ Hairenik (28 tháng 9 năm 2017). “Breaking: Michigan Recognizes Artsakh Independence”. The Armenian Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc 28 tháng Chín năm 2017. Truy cập 28 tháng Chín năm 2017.
  44. ^ “Азербайджанские "активисты" блокируют дорогу из Карабаха в Армению. Одновременно в Карабахе пропал газ” [Azerbaijani "activists" are blocking the road from Karabakh to Armenia. At the same time, gas disappeared in Karabakh]. BBC News Русская Служба (bằng tiếng Nga). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
  45. ^ Loe, Catherine (27 tháng 4 năm 2023). “Azerbaijan sets up checkpoints on the Lachin corridor”. Economist Intelligence Unit (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2023. The move [installation of a checkpoint] has increased the blockade of Nagorny Karabakh...A checkpoint on the border would give Azerbaijan the ability to stop any cars travelling between Armenia and Nagorny Karabakh.
  46. ^ Hauer, Neil (31 tháng 7 năm 2023). “Karabakh blockade reaches critical point as food supplies run low”. www.intellinews.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2023. Occasional ICRC and Russian traffic continued to pass until June 15, at which point Azerbaijan halted all humanitarian deliveries. No food, medicine or fuel has entered Nagorno-Karabakh since.
  47. ^ “New Troubles in Nagorno-Karabakh: Understanding the Lachin Corridor Crisis”. www.crisisgroup.org (bằng tiếng Anh). 22 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2023. While travellers were already few due to the blockade, the ICRC reports that its ability to get people across has been curtailed [since the installation of the checkpoint], leaving only the Russian peacekeepers to facilitate trips to Armenia for medical care.
  48. ^ a b Light, Felix (23 tháng 9 năm 2023). “Karabakh Armenians say ceasefire being implemented, aid is arriving”. Reuters. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2023.
  49. ^ Light, Felix; Faulconbridge, Guy; Faulconbridge, Guy (21 tháng 9 năm 2023). “Karabakh Armenians seek promises before giving up weapons to Azerbaijan”. Reuters. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  50. ^ Roth, Andrew (24 tháng 9 năm 2023). “First evacuees from Nagorno-Karabakh cross into Armenia”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  51. ^ “La république séparatiste du Haut-Karabakh cessera d'exister le 1er janvier 2024”. Le Progrès (bằng tiếng Pháp). 28 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2023.
  52. ^ “Azerbaijan's president raises national flag in Nagorno-Karabakh capital”. 15 tháng 10 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2023.
  53. ^ “Human Rights Watch World Report 1995”. Hrw.org. Lưu trữ bản gốc 5 Tháng tám năm 2012. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012.
  54. ^ Lynch, Dov. Managing separatist states: A Eurasian case study (PDF) (Bản báo cáo). Paris: Institute for Security Studies – Western European Union. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2009 – qua Archive of European Integration – Pitt.
  55. ^ Hughes, James (2002). Ethnicity and Territory in the Former Soviet Union: Regions in Conflict . London: Cass. tr. 211. ISBN 9780714682105. Indeed, Nagomo- Karabakh is de facto part of Armenia.
  56. ^ “Armenia expects Russian support in Karabakh war”. Hürriyet Daily News. 20 tháng 5 năm 2011. Lưu trữ bản gốc 2 tháng Mười năm 2013. Truy cập 25 Tháng sáu năm 2013. While internationally recognized as Azerbaijani territory, the enclave has declared itself an independent republic but is administered as a de facto part of Armenia.
  57. ^ Deutsche Gesellschaft für auswärtige Politik, Internationale Politik, Volume 8, 2007 "...and Nagorno-Karabakh, the disputed territory that is now de facto part of Armenia..."
  58. ^ “Armenia and Azerbaijan: Key West Peace Talks”. 2001-2009.state.gov. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2019.
  59. ^ a b “Resources – Center for Security Studies | ETH Zurich”. Isn.ethz.ch (bằng tiếng Đức). 12 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2016.
  60. ^ Condon, Christopher (5 tháng 6 năm 2006). 'Marathon' talks on Nagorno-Karabakh”. News.ft.com. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2012.
  61. ^ “Kocharyan-Aliyev Meeting Over in Bucharest”. Panarmenian.net. 5 tháng 6 năm 2006. Lưu trữ bản gốc 22 tháng Chín năm 2009. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012.
  62. ^ “No Progress at Kocharyan-Aliyev Meeting in Bucharest”. Panarmenian.net. 6 tháng 6 năm 2006. Lưu trữ bản gốc 22 tháng Chín năm 2009. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012.
  63. ^ “Nagorno-Karabakh FM: Granting Autonomy To Nagorno-Karabakh Is Out of Baku Competence”. Regnum.ru. Bản gốc lưu trữ 10 tháng Mười năm 2012. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012.
  64. ^ ռ/կ, Ազատություն (23 tháng 6 năm 2006). “U.S. Confirms Vote Option For Karabakh”. «Ազատ Եվրոպա/Ազատություն» Ռադիոկայան (bằng tiếng Armenia). Lưu trữ bản gốc 20 Tháng mười hai năm 2016. Truy cập 18 Tháng mười hai năm 2016.
  65. ^ “Resources – Center for Security Studies | ETH Zurich”. Isn.ethz.ch (bằng tiếng Đức). 12 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 13 Tháng sáu năm 2008. Truy cập 18 Tháng mười hai năm 2016.
  66. ^ “Nagorno-Karabakh”. Ministry of Foreign Affairs of the Republic of Armenia (posted in or after 2008). Bản gốc lưu trữ 4 Tháng mười một năm 2013. Truy cập 15 Tháng mười một năm 2013.
  67. ^ Ministry of Foreign Affairs of the Nagorno-Karabakh Republic (posted in or after 2007). “Nagorno Karabagh Republic: History and Current Reality”. Bản gốc lưu trữ 20 tháng Năm năm 2010. Truy cập 6 tháng Năm năm 2010.
  68. ^ “Interview of President Serzh Sargsyan to "Politique Internationale" Journal”. Ministry of Foreign Affairs of Republic of Armenia Official Site. 4 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2013.
  69. ^ “Minister of Foreign Affairs of Armenia on a question of "Haylur" News Program”. Ministry of Foreign Affairs of Republic of Armenia Official Site. 16 tháng 2 năm 2010. Bản gốc lưu trữ 11 Tháng mười một năm 2011.
  70. ^ “Artsakh will never be a part of Azerbaijan”. Panarmenian.net. 4 tháng 2 năm 2009. Lưu trữ bản gốc 17 tháng Mười năm 2017. Truy cập 5 tháng Chín năm 2017.
  71. ^ “Serzh Sargsyan: Karabakh was never a part of independent Azerbaijan”. Panorama.am. 10 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc 24 tháng Chín năm 2015. Truy cập 5 tháng Chín năm 2017.
  72. ^ “Azerbaijani president: Armenians are guests in Yerevan”. REGNUM News Agency. 17 tháng 1 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2009.
  73. ^ “UNO Department of Public Information. General Assembly adopts resolution reaffirming territorial integrity of Azerbaijan, demanding withdrawal of all Armenian forces”. Un.org. 14 tháng 3 năm 2008. Lưu trữ bản gốc 3 tháng Bảy năm 2012. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012.
  74. ^ External relations (20 tháng 5 năm 2010). “South Caucasus: EU must help stabilise the region, say MEPs”. European Parliament. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2012.
  75. ^ “The need for an EU strategy for the South Caucasus”. Article 3,38, Resolution số P7_TA(2010)0193 Error: the date or year parameters are either empty or in an invalid format, please use a valid year for year, and use DMY, MDY, MY, or Y date formats for date. European Parliament. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2022.
  76. ^ “G8 Summit: Joint Statement on the Nagorno-Karabakh Conflict by Dmitry Medvedev, President of the Russian Federation, Barack Obama, President of the United States of America, and Nicolas Sarkozy, President of the French Republic”. whitehouse.gov. 26 tháng 6 năm 2010. Lưu trữ bản gốc 5 Tháng hai năm 2017. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012 – qua National Archives.
  77. ^ “Artsakh is Armenia and there is no alternative – Pashinyan”. Armenpress (bằng tiếng Anh). 5 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2019.
  78. ^ “The Parliament of the Nagorno Karabakh Republic”. Washington, DC: The Office of the Nagorno Karabakh Republic (NKR) in the USA. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2012.
  79. ^ “Nagorno-Karabakh [Armenia/Azerbaijan]”. Map of Freedom in the World. Freedom House. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2011.
  80. ^ Cornell, Svante (2011). Azerbaijan Since Independence. New York: M.E. Sharpe. tr. 135. ISBN 978-0-7656-3004-9. Following the war, the territories that fell under Armenian control, in particular Mountainous Karabakh itself, were slowly integrated into Armenia. Officially, Karabakh and Armenia remain separate political entities, but for most practical matters the two entities are unified.
  81. ^ Waters, Christopher (2006). “Law in Places That Don't Exist”. Denver Journal of International Law & Policy. 34 (3): 408–410. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2022.
  82. ^ “Nagorno Karabakh to hold referendum on draft constitution on 10 December”. REGNUM. 3 tháng 11 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2008.
  83. ^ “Karabakh Approves Pro-Independence Constitution”. Radio Free Europe. 11 tháng 12 năm 2006. Lưu trữ bản gốc 17 Tháng sáu năm 2008. Truy cập 16 Tháng mười hai năm 2008.
  84. ^ “Constitution of the Nagorno Karabakh Republic”. Ministry of Foreign Affairs of the Nagorno Karabakh Republic. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2018.
  85. ^ “Constitution”. Ministry of Foreign Affairs of the Nagorno Karabakh Republic. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2016.
  86. ^ “Nagorno-Karabakh gains constitution”. ISN.ETHZ.ch. 13 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2008.
  87. ^ “Турция осудила референдум в Нагорном Карабахе”. kavkaz-uzel.ru. 11 tháng 12 năm 2006. Lưu trữ bản gốc 14 tháng Mười năm 2007.
  88. ^ “Azerbaijan's Breakaway Nagorno-Karabakh Holds 'Illegal' Referendum”. Radio Free Europe. 21 tháng 2 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 23 Tháng hai năm 2017. Truy cập 23 Tháng hai năm 2017.
  89. ^ “Artsakh Votes for New Constitution, Officially Renames the Republic”. Armenian Weekly. 21 tháng 2 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 22 Tháng hai năm 2017. Truy cập 15 Tháng sáu năm 2018.
  90. ^ Andrew Rettman (20 tháng 2 năm 2017). “Referendum to create 'Republic of Artsakh' on Europe's fringe”. euobserver. Lưu trữ bản gốc 23 Tháng hai năm 2017. Truy cập 23 Tháng hai năm 2017.
  91. ^ “Permanent Representations”. Ministry of Foreign Affairs of Nagorno-Karabakh Republic. Bản gốc lưu trữ 26 tháng Năm năm 2011. Truy cập 7 tháng Năm năm 2010.
  92. ^ Серж Саргсян: Нагорный Карабах – это Армения [Serzh Sargsyan: Nagorno-Karabakh is Armenia]. Vestnik Kavkaza (bằng tiếng Nga). 26 tháng 9 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2015.
  93. ^ “Constitution of the Republic of Artsakh”. Washington, DC: The Office of the Nagorno Karabakh Republic (NKR) in the USA. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2016.
  94. ^ “Azerbaijan Ends Fighting in Disputed Region as Armenians Concede”. Bloomberg.com (bằng tiếng Anh). 20 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
  95. ^ “Important Facts about NKR Defense Army”. Washington, DC: The Office of the Nagorno Karabakh Republic (NKR) in the USA. Lưu trữ bản gốc 1 Tháng tám năm 2012. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012.
  96. ^ Blandy, C. W. (17 tháng 8 năm 2008), “Azerbaijan: Is War Over Nagornyy Karabakh a Realistic Option?” (PDF), Advanced Research and Assessment Group: Caucasus Series, Defence Academy of the United Kingdom, tr. 14, ISBN 978-1-905962-49-5, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2011
  97. ^ “IDMC » Azerbaijan: After more than 20 years, IDPs still urgently need policies to support full integration”. www.internal-displacement.org (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ 17 tháng Chín năm 2017. Truy cập 9 Tháng mười một năm 2017.
  98. ^ “Hundreds of thousands of people displaced”. Amnesty International. 28 tháng 6 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2008.
  99. ^ “Azerbaijan Republic: Poverty Reduction Strategy Paper” (PDF). IMF Country Report. International Monetary Fund. 105 (3). tháng 4 năm 2003. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2022 – qua UNESCO Planipolis.
  100. ^ “President Aliyev: After that we will work on return of Azerbaijani refugees to Nagorno-Karabakh”. AZƏRBAYCAN 24. 9 tháng 11 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2020.
  101. ^ “Azerbaijan fully reclaims lands around Nagorno-Karabakh”. Aljazeera. 1 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2020.
  102. ^ “Azerbaijanis Who Fled War Look to Return Home, If It Exists”. VOA. Associated Press. 22 tháng 11 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2020.
  103. ^ Mehdiyev, Mushvig (19 tháng 11 năm 2020). “Azerbaijani President Visits Liberated Districts, Vows to Rebuild Damaged Villages and Cities”. Caspian News. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2020.
  104. ^ Natiqqizi, Ulkar (19 tháng 11 năm 2020). “Azerbaijan starts rebuilding in newly won territories”. Eurasianet. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2020.
  105. ^ “Azerbaijani army enters Lachin: who's where in Karabakh – an overview”. JAMnews. 1 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2020.
  106. ^ a b “Armenia – 2001”, World Refugee Survey – Country Reports, US Committee for Refugees and Immigrants, tháng 1 năm 2001, Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2008 Theo thông tin của Cộng hòa Nagorno Karabakh, Khoảng 350.000 người Armenia đã bị trục xuất khỏi Azerbaijan và khoảng 36.000 người trong số họ đã đến Nagorno Karabakh. Ngoài ra, khoảng 71.000 người Armenia ở Karabakh phải di tản nội bộ; xem: “Fact Sheet: Refugees & Internally Displaced Persons (IDP) In Nagorno Karabakh” (PDF). Washington, DC: The Office of the Nagorno Karabakh Republic (NKR) in the USA. tháng 5 năm 2006. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2010.
  107. ^ “UN: More Than 100 Killed By Mines Near Nagorno-Karabakh – Radio Free Europe / Radio Liberty 2009”. Rferl.org. 24 tháng 12 năm 2005. Lưu trữ bản gốc 6 tháng Bảy năm 2008. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012.
  108. ^ “The HALO Trust – A charity specialising in the removal of the debris of war :: Requirement for continued clearance”. 25 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ 25 Tháng sáu năm 2010.
  109. ^ Gregorian, Alin (5 tháng 4 năm 2018). “Three HALO Trust Workers Killed in Artsakh”. The Armenian Mirror-Spectator. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2019.
  110. ^ “HALO Trust-ը՝ Ղարաբաղում ականազերծման ծրագրի կարեւորության վերաբերյալ”. Voice of America. 17 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2019.
  111. ^ a b “Nagorno Karabakh Republic – Country Overview”. Washington, DC: The Office of the Nagorno Karabakh Republic (NKR) in the USA. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2012.
  112. ^ a b c d “Geographic Location, Climate, Natural Resources and Wildlife of the Nagorno Karabakh Republic”. Washington, DC: The Office of the Nagorno Karabakh Republic (NKR) in the USA. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2012.
  113. ^ Moores, E.M.; Fairbridge, Rhodes W. (1997). Encyclopedia of European & Asian Regional Geology. Springer. tr. 61.
  114. ^ a b Siranush Ghazanchyan (1 tháng 2 năm 2022). “Bill on territories occupied by Azerbaijan brought to the agenda of Artsakh Parliament”. Public Radio of Armenia. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2022.
  115. ^ a b Закон об азербайджанской оккупации Арцаха должен действовать до ее прекращения – глава МИД НКР [Law on Azerbaijani occupation of Artsakh must remain in effect until its termination – NKR Foreign Minister]. АМИ Новости-Армения [AMI News Armenia] (bằng tiếng Nga). 30 tháng 1 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2022.
  116. ^ a b “Artsakh Parliament adopts law on territories occupied by Azerbaijan”. Public Radio of Armenia. 18 tháng 2 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  117. ^ Joint session of the Nagorno Karabakh Oblast and Shahoumian regional councils of people's deputies with the participation of deputies of councils of all levels (2 tháng 9 năm 1991). “Declaration: On proclamation of the Nagorno Karabakh Republic”. Ministry of Foreign Affairs of the Nagorno Karabakh Republic. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2008.
  118. ^ “Azerb.com – Regions”. Travel-images.com. 24 tháng 3 năm 2007. Lưu trữ bản gốc 9 Tháng sáu năm 2012. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012.
  119. ^ “Table 1.4: De Jure Population by Administrative Territorial Distribution and Density (with map)”. Census in NKR 2005 (PDF) (Bản báo cáo). Ministry of Foreign Affairs of the Nagorno Karabakh Republic. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2012.
  120. ^ “Almost all ethnic Armenians have left Nagorno-Karabakh”. The Guardian. 30 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2023.
  121. ^ “Azerbaijani Party Appeals To OSCE About Armenian Resettlement”. RFERL. 13 tháng 5 năm 2011. Lưu trữ bản gốc 16 tháng Năm năm 2011. Truy cập 13 tháng Năm năm 2011.
  122. ^ “Executive Summary of the "Report of the OSCE Minsk Group Co-Chairs' Field Assessment Mission to the Occupied Territories of Azerbaijan Surrounding Nagorno-Karabakh". OSCE. 2011. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng sáu năm 2011. Truy cập 26 tháng Năm năm 2011.
  123. ^ “Digging out of Deadlock in Nagorno-Karabakh”. International Crisis Group. 20 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2020.
  124. ^ “Nagorno Karabakh prime minister: We need to have at least 300,000 population”. REGNUM News Agency. 9 tháng 3 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2007.
  125. ^ Евразийская панорама [Eurasian panorama]. Население и общество [Population and Society] (bằng tiếng Nga). Higher School of Economics Institute of Demography. Sec. 11. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2012 – qua Демоскоп [Demoscope] Weekly.
  126. ^ Population (PDF). Statistical Yearbook of NKR (Bản báo cáo). Ministry of Foreign Affairs of the Nagorno Karabakh Republic. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2008.
  127. ^ “Population” (PDF). Stat-nkr.am. Lưu trữ (PDF) bản gốc 27 Tháng mười hai năm 2016. Truy cập 18 Tháng mười hai năm 2016.
  128. ^ Henze, Paul B. (1 tháng 1 năm 1991). “The demography of the Caucasus according to 1989 Soviet census data”. Central Asian Survey. 10 (1–2): 147–170. doi:10.1080/02634939108400741. ISSN 0263-4937. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2021.
  129. ^ Welt, Cory D. (2004). Explaining ethnic conflict in the South Caucasus: Mountainous Karabagh, Abkhazia, and South Ossetia (PhD). Stephen Van Evera, advisor. MIT Dept. of Political Science. hdl:1721.1/28757. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2022.
  130. ^ Справочник статистических показателей – Демографические показатели по 15 новым независимым государствам [Handbook of statistical indicators – Demographics for the 15 Newly Independent States]. Демоскоп [Demoscope] Weekly (bằng tiếng Nga). 9 tháng 11 năm 2024 [All-Union population census of 1989; vol 1, Part 1, Table 3: Current population]. ISSN 1726-2887. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2020.
  131. ^ a b “Artsakh Parliament approves bill on granting official status to Russian language”. Armenpress. 25 tháng 3 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2021.
  132. ^ “Russian Language to Get Official Status in Artsakh”. UNC Dornsife: Institute of Armenian Studies. 16 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2021.
  133. ^ “Nagorno Karabakh in Figures” (PDF). National Statistical Service of the Nagorno Karabakh Republic. 2015. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2020.
  134. ^ Hakob Ghahramanyan. “Directory of socio-economic characteristics of NKR administrative-territorial units (2015)”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2021.
  135. ^ Rowland, Richard H. (2008). “Population Trends in a Contested Pseudo-State: The Case of Nagorno-Karabakh”. Eurasian Geography and Economics. 49 (1): 105–108. doi:10.2747/1539-7216.49.1.99. S2CID 153638052. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2021.
  136. ^ Заселение освобожденных территорий противоречит стратегическим интересам России [The settlement of the liberated territories is contrary to the strategic interests of Russia], Nyut.am (bằng tiếng Nga), Yerevan, 15 tháng 7 năm 2013, Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2015
  137. ^ “Convention (IV) relative to the Protection of Civilian Persons in Time of War”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2019 – qua International Committee of the Red Cross – Treaties, State parties, and Commentaries. Article 49.
  138. ^ Azimov, Gafar (13 tháng 5 năm 2011), Правящая партия Азербайджана направила протест сопредседателям Минской группы ОБСЕ [The ruling party of Azerbaijan sent a protest to the co-chairs of the OSCE Minsk Group], Aze.az (bằng tiếng Nga), Baku, Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2016
  139. ^ Movses Kaghankatvatsi. History of Aluank. Book I. Chapter XIV.
  140. ^ Viviano, Frank. "The Rebirth of Armenia", National Geographic Magazine, March 2004
  141. ^ John Noble, Michael Kohn, Danielle Systermans. Georgia, Armenia and Azerbaijan. Lonely Planet; 3 edition (May 1, 2008), p. 307
  142. ^ “Education in the Nagorno Karabakh Republic”. Washington, DC: The Office of the Nagorno Karabakh Republic (NKR) in the USA. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2012.
  143. ^ “Karabakh Telecom site”. Karabakhtelecom.com. Lưu trữ bản gốc 4 tháng Năm năm 2012. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012.
  144. ^ "Karabakh Telecom," created by separatists, is disconnected from external communication”. Turan Information Agency. Turan Information Agency. 30 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2023.
  145. ^ “Base Metals LLC – History”. Bm.am. 7 tháng 10 năm 2002. Bản gốc lưu trữ 18 Tháng tư năm 2012. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012.
  146. ^ “Statistical Yearbook of NKR 2002–2008, p. 169” (PDF). Lưu trữ (PDF) bản gốc 2 Tháng tư năm 2012. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012.
  147. ^ “Base Metals LLC – Product”. Bm.am. Bản gốc lưu trữ 17 Tháng Một năm 2012. Truy cập 6 tháng Năm năm 2012.
  148. ^ “Azerbaijan to prosecute mining in Karabakh”, Meydan TV, 3 tháng 4 năm 2018, Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2019, truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2019
  149. ^ “Republic of Nagorno-Karabakh: Process of State Building at the Crossroad of Centuries” (PDF). "Institute of Political Research" SNCO. 2009. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.
  150. ^ a b “Search Hotels – Stepanakert”. armhotels.am (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2017.
  151. ^ В мире растет интерес к Арцаху [Interest in Artsakh is growing in the world]. Ministry of Foreign Affairs of the Nagorno Karabakh Republic (bằng tiếng Nga). 24 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2011.
  152. ^ “Geography of the visitors to the NKR keeps on expanding”. Ministry of Foreign Affairs of the Nagorno Karabakh Republic. 18 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc 27 tháng Chín năm 2011. Truy cập 25 Tháng tám năm 2010.
  153. ^ Kucera, Joshua (4 tháng 12 năm 2019). “Karabakh's contentious mosque restoration”. Erasianet. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2021.
  154. ^ “Janapar Trail”. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2021.
  155. ^ Mitchell, Laurence (Summer 2009). “Up the Garden Path”. Walk. The Ramblers: 67–69. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2022.
  156. ^ “Warning for the foreign nationals wishing to travel to the occupied territories of the Republic of Azerbaijan”. Ministry of Foreign Affairs of the Republic of Azerbaijan. Lưu trữ bản gốc 1 Tháng mười hai năm 2017. Truy cập 23 Tháng mười một năm 2017.
  157. ^ Գինու փառատոն Արցախում [Wine festival in Artsakh]. Ապառաժ – Նորություններ Արցախից [Aparaj – Artsakh News] (bằng tiếng Armenia). 18 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2019.
  158. ^ “The Sixth Artsakh Wine festival held in the Togh village of Artsakh's Hadrut region”. Artsakh Press (Photo essay) (bằng tiếng Anh). 21 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2019.
  159. ^ a b “North-South Highway: The Backbone of Karabakh”. Armenia Fund USA. Bản gốc lưu trữ 17 tháng Năm năm 2014. Truy cập 15 tháng Năm năm 2014.
  160. ^ Petrosian, Kristine (7 tháng 10 năm 2000). “Karabakh hopes for recognition – from investors”. Russia Journal. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2014.
  161. ^ “It'll take 3 hours to drive from Yerevan to Stepanakert through new highway being constructed by Hayastan fund”. Arka. 13 tháng 5 năm 2013. Lưu trữ bản gốc 17 tháng Năm năm 2014. Truy cập 15 tháng Năm năm 2014.
  162. ^ “New Highway Linking Armenia and Artsakh Inaugurated”. The Armenian Weekly. 1 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  163. ^ Kucera, Joshua (25 tháng 7 năm 2019). “Armenia and Karabakh announce construction of third connecting highway”. eurasianet. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  164. ^ Farrell, Francis (12 tháng 11 năm 2020). “The battle for Shusha: the cauldron of generational pain at the heart of the Nagorno-Karabakh war”. New Eastern Europe. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  165. ^ Williams, Glyn (2020). “Railways in Artsakh (Nagorno-Karabakh)”. Glyn Williams' Home Page. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2022.
  166. ^ “Nagorno-Karabakh Airport Preparing For First Flights In Decades”. RFE/RL. 27 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2011.
  167. ^ “Karabakh Telecom site”. Karabakhtelecom.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2012.
  168. ^ “About us - Karabakh Telecom”. kt.am. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  169. ^ "Karabakh Telecom" Begins Operations”. Asbarez.com (bằng tiếng Anh). 13 tháng 2 năm 2002. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  170. ^ Khatcherian, Hrair, Artsakh: A Photographic Journey, tr. 49
  171. ^ “Deconstructed: The Hidden Siege of Nagorno-Karabakh”. The Intercept (bằng tiếng Anh). 20 tháng 1 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2023.
  172. ^ “Artsakh is a 'shield' that has protected Armenia for centuries, FM says”. www.panorama.am (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2023. In December, 2022, Artsakh Foreign Minister David Babayan wrote "[Artsakh] is a shield that has protected Armenia for centuries and ensured the security of the Armenian people."
  173. ^ “Գլխավոր”. Truy cập 1 tháng 1 năm 2024.
  174. ^ Աբխազիայի ու Արցախի հավաքականները բաժանվեցին խաղաղությամբ՝ 1:1 [The teams of Abkhazia and Artsakh split peacefully, 1:1]. Tert.am (bằng tiếng Armenia). Yerevan. 25 tháng 9 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2016.
  175. ^ “Armenia's newly formed second national football team to face Abkhazia”. News.am Sport. 14 tháng 9 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2016.
  176. ^ “Holidays and Memorable Days in Nagorno Karabagh Republic”. Official website of the President of the Nagorno Karabagh Republic. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ghazaryan, Narine (2021). “The Legal System of Nagorno-Karabakh: International and European Considerations”. Unrecognized Entities (bằng tiếng Anh). Brill Nijhoff. ISBN 978-90-04-49910-2.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]